BÁO CÁO SỐ 07/BC- TLĐ
NGÀY 09 THÁNG 01 NĂM 2007
CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Tổng kết công tác công đoàn năm 2006, nhiệm vụ năm 2007

Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC  LAO ĐỘNG VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN NĂM 2006

I- TÌNH HÌNH CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG

Năm 2006, đất nước diễn ra nhiều sự kiện chính trị trọng đại: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, VN chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tổ chức thành công Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 14… Bên cạnh những thuận lợi, khó khăn và thách thức cũng rất lớn như thiên tai gây thiệt hại nặng nề ở nhiều địa phương nhiều dịch bệnh xảy ra ở người, gia súc, cây trồng; những biến động bất thường về giá cả, nhất là giá xăng dầu và những rào cản mới trong thương mại quốc tế… Bằng sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, đất nước đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giành được thắng lợi trên nhiều lĩnh vực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 8,2%. Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều kết quả, vị thế của nước ta trong khu vực và quốc tế được nâng cao thêm.

Tuy nhiên, tình hình KTXH nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập như: Tốc độ tăng trưởng GDP chưa tương xứng với tiềm năng và chưa vững chắc. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Kết cấu hạ tầng xã hội, sự phát triển của khoa học- công nghệ, giáo dục- đào tạo, bảo vệ- cải thiện môi trường, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Đời sống nhân dân ở nông thôn, nhất là miền núi, vùng bị thiên tai nhiều nơi còn khó khăn. Tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi; tai nạn giao thông vẫn xảy ra nghiêm trọng, trong năm đã có 23.853 người chết và bị thương vì tai nạn giao thông, trong đó có 12.609 người chết, 11.253 người bị thương.

Những thành tựu và yếu kém trên có sự đóng góp quan trọng cũng như có phần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, CNVCLĐ và các cấp CĐ cả nước.

 Trong năm 2006, nhiều công trình xây dựng qui mô lớn được triển khai thực hiện và hàng trăm nghìn DN được thành lập mới nên số lượng CNLĐ tăng nhanh, chủ yếu ở khu vực DN ngoài nhà nước và DN có vốn ĐTNN. Số lượng CNLĐ ở khu vực DNNN tiếp tục giảm do CPH, sắp xếp lại, chuyển đổi hình thức sở hữu. Nhiều DN thiếu lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao. Số lao động thiếu việc làm và việc làm không ổn định tập trung nhiều ở các DN làm ăn không hiệu quả, phải giải thể, phá sản; các đơn vị xây dựng cơ bản bị nợ đọng vốn; bị ảnh hưởng của các cơn bão, của các vụ kiện chống bán phá giá…

Thu nhập từ tiền lương hàng tháng của cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan nhà nước ổn định và tăng thêm 28,6% do Nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu. Tiền lương ở DNNQD nhìn chung còn thấp, từ 700.000 đồng đến 1,2 triệu đồng/người/tháng, có nơi chỉ đạt 300.000 đồng/người/tháng. ở DN có vốn ĐTNN, từ tháng 02/2006, tiền lương tối thiểu được Chính phủ điều chỉnh, thu nhập tăng thêm từ 200.000 đến 300.000 đồng, đạt bình quân 900.000 đến 3,5 triệu đồng/người/tháng. Vấn đề đáng quan tâm hiện nay là hầu hết các DNNQD và có vốn ĐTNN không xây dựng thang lương, bảng lương theo qui định. Tiền lương, tiền công theo chức danh quản lý và trình độ cao ở DN có sự phân biệt rõ rệt, những lao động được đào tạo, trình độ cao nhận mức lương cao hơn nhiều lần so với lao động trình độ thấp hoặc chưa qua đào tạo; (Ví dụ: ở ngành Dầu khí mức lương tháng cao nhất là 1.700 USD, thấp nhất là 600.000đồng; tương tự, ở ngành công nghiệp là 38 triệu đồng và 500.000đồng, ngành Đường sắt là 15 triệu đồng và 300.000đồng…); nhiều DN đang áp dụng sự chênh lệch tiền lương để thu hút lao động trình độ cao. Hầu hết ở các công trình xây dựng cơ bản việc thanh toán tiền lương cho người lao động chậm, có nơi chậm nhiều tháng. Đáng chú ý, thời gian gần đây xuất hiện tình trạng một số DN có vốn ĐTNN (chủ yếu của Hàn Quốc) nợ lương công nhân từ 2 đến 3 tháng, chủ DN bỏ trốn hoặc tẩu tán tài sản, gây lên tình trạng bất ổn tại DN.

Nhà ở và điều kiện sống của CNVCLĐ vẫn là vấn đề rất bức xúc, là mối quan tâm hàng đầu của người lao động và tổ chức CĐ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầu hết các tỉnh, TP lớn, các KCX, KCN không thực hiện được việc xây dựng nhà lưu trú cho công nhân; hàng vạn giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa chưa có nhà ở công vụ. Một số nơi có xây nhà cho thuê nhưng giá thuê quá cao, không phù hợp với thu nhập của người lao động nên công nhân phải tự thuê chỗ ở với giá thấp trong những khu nhà trọ tạm bợ, thiếu thốn, không đảm bảo an toàn. Hạ tầng xã hội và các thiết chế văn hoá cho CNLĐ ở bên ngoài KCN chưa được đầu tư đúng mức, gây ra tình trạng quá tải, nhất là về lĩnh vực y tế, an ninh trật tự và môi trường sống, đời sống văn hoá, tinh thần của CNLĐ nghèo nàn, dễ phát sinh các tệ nạn xã hội.

Tình trạng DN nợ đọng, đóng thiếu hoặc không đóng BHXH vẫn xảy ra ở hầu hết các ngành, địa phương. Điển hình như Hà Giang nợ BHXH hơn 6 tỷ đồng, tương tự, Hà tĩnh 6 tỷ đồng, Sóc Trăng hơn 1,6 tỷ đồng, Bắc Giang hơn 1,7 tỷ đồng, ngành NN- PTNT 5 tỷ đồng… Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do: người sử dụng lao động cố tình tìm mọi cách lẩn tránh nghĩa vụ đóng BHXH bắt buộc cho người lao động hoặc chiếm dụng để đầu tư vào SXKD; DN thua lỗ, không đủ khả năng đóng BHXH; chế tài xử phạt chưa đủ mạnh và không kịp thời nên chưa có tác dụng răn đe.

Tình hình đình công trong những tháng đầu năm 2006 diễn biến phức tạp, chủ yếu xảy ra ở DN có vốn ĐTNN, đòi tăng lương tối thiểu và có tính chất lan truyền từ DN này sang DN khác, từ KCN này sang KCN khác. Nêu cao tinh thần trách nhiệm, các CĐ địa phương nơi xảy ra đình công đã tích cực phối hợp với chính quyền, cơ quan chức năng tham gia giải quyết, tập trung vào yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, nhất là về tiền lương, thưởng, việc thực hiện các chế độ BHXH, BHYT, thời giờ làm việc, BHLĐ…; Đoàn Chủ tịch TLĐ đã chủ động phối hợp với Bộ LĐTBXH kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét việc tăng lương tối thiểu, được Thủ tướng chấp nhận và đã ban hành NĐ số 03/2006/NĐ- CP ngày 06/01/2006, góp phần ổn định tình hình, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng đình công của CNLĐ.

Trong năm 2006 (tính đến 10/12), cả nước đã xảy ra 352 cuộc đình công, chủ yếu xảy ra ở DN có vốn ĐTNN (247 cuộc), tập trung ở một số tỉnh, thành phố như Bình Dương (116 cuộc, chiếm 33,7%), thành phố Hồ Chí Minh (106 cuộc, chiếm 30,8%), Đồng Nai (69 cuộc, chiếm 20,1%). Mục đích chủ yếu của các cuộc đình công là đòi thực hiện đúng chế độ tiền lương, cải thiện điều kiện làm việc và các chế độ, chính sách khác theo qui định của pháp luật.

Nguyên nhân xảy ra đình công chủ yếu là do người sử dụng lao động không thực hiện đúng các qui định của pháp luật lao động, nhất là các qui định về tiền lương, tiền thưởng, BHXH, điều kiện làm việc của người lao động; ngoài ra còn có nguyên nhân do Chính phủ chậm điều chỉnh tiền lương tối thiểu trong các DN có vốn ĐTNN; công tác thanh tra, kiểm tra bị buông lỏng và kém hiệu lực; CĐCS trong các DN xảy ra đình công chưa kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của người lao động đến người sử dụng lao động và các cấp có thẩm quyền; nhận thức của người lao động và cả người sử dụng lao động về pháp luật và chính sách còn nhiều hạn chế.

Tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, CNVCLĐ: phần lớn vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn khởi trước những thành tựu phát triển KTXH trong 20 năm đổi mới, về VN gia nhập tổ chức Thương mại thế giới và tổ chức thành công hội nghị APEC 14. Mong muốn hàng đầu của CNVCLĐ là có việc làm thường xuyên, thu nhập đảm bảo được cuộc sống; được học tập, nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp. Đồng thời lo lắng về tình hình giá cả các mặt hàng thiết yếu  liên tục tăng, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày; TNXH, tai nạn giao thông không giảm. Một bộ phận cán bộ, CNVCLĐ hoài nghi, giảm lòng tin vào Đảng, Nhà nước trước tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là cán bộ có chức, có quyền diễn ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt.

II- KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN

1- Phong trào thi đua trong CNVCLĐ.

Nổi bật  là phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển KTXH đất nước năm 2006. 100% LĐLĐ các tỉnh, thành phố, CĐ ngành TW đã phát động thi đua. Phong trào diễn ra sôi nổi, rộng khắp; đã khơi dậy ý thức trách nhiệm, nhiệt tình cách mạng, vượt qua khó khăn, năng động sáng tạo của đội ngũ CNVCLĐ. Đặc biệt, TLĐ và một số LĐLĐ tỉnh, CĐ ngành TW thường xuyên quan tâm, phối hợp với các cơ quan liên quan tập trung chỉ đạo thi đua liên kết trên các công trình xây dựng trọng điểm quốc gia như Trung tâm hội nghị quốc gia, Nhà máy thuỷ điện Sơn La, Nhà máy lọc dầu Dung Quất. TLĐ đã phối hợp với Hội đồng Thi đua- Khen thưởng TW, Ban Thi đua- Khen thưởng TW, Đài THVN, Đài TNVN tổ chức thành công chương trình “Vinh quang VN” lần thứ IV nhằm tôn vinh thành tích của các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến xuất sắc, được các ngành, địa phương và dư luận xã hội đánh giá cao. Phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” gắn liền với phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” trong nữ CNVCLĐ đã được CĐ các cấp cụ thể hoá cho phù hợp với từng loại hình, thu hút đông đảo lao động nữ tham gia. Phong trào thi đua liên kết phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn được các cấp CĐ chỉ đạo thu được nhiều kết quả thiết thực.

Các ngành, địa phương và TLĐ đã tổ chức tổng kết 10 năm (1996- 2006) phong trào thi đua “Lao động sáng tạo” và “Xanh- Sạch- Đẹp, Đảm bảo ATVSLĐ” trong CNVCLĐ, khẳng định những đóng góp to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức CĐ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước.

Qua phong trào thi đua chào mừng Đại hội Đảng, đã có 3.121 công trình, sản phẩm với tổng trị giá hơn 1,85 nghìn tỷ đồng, hơn 8.390 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, giải pháp hữu ích được áp dụng. Riêng TLĐ đã gắn biển cho 08 công trình, sản phẩm tiêu biểu.

Các cấp CĐ đã coi trọng việc kiểm tra, đánh giá kết quả thi đua, kịp thời biểu dương, khen thưởng và hiệp y đề nghị Đảng, chính quyền khen thưởng hàng vạn tập thể, cá nhân đạt thành tích. Trong năm 2006, TLĐ đã xét tặng 549 cờ thưởng các loại, 4.629 Bằng khen của BCH TLĐ, 702 Bằng Lao động sáng tạo, đề nghị Chủ tịch nước tặng 67 Huân chương các loại, Thủ tướng Chính phủ tặng 06 cờ thi đua, 115 bằng khen cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc.

Tuy nhiên, phong trào thi đua chủ yếu mới tập trung ở các DNNN có hiệu quả trong SXKD. Chưa có các biện pháp tích cực phối hợp cùng chuyên môn phát động phong trào thi đua để cùng các DN tháo gỡ khó khăn trong SXKD để vươn lên. Trong nhiều cơ quan HCSN, nội dung thi đua chưa rõ và còn hình thức. Chưa tập trung nghiên cứu cách thức tổ chức thi đua cho phù hợp với các DN NQD và DN có vốn ĐTNN. Đối tượng được khen thưởng chủ yếu là cán bộ lãnh đạo, chưa quan tâm khen thưởng đúng mức đến công nhân trực tiếp. Phong trào CNVCLĐ và CĐ tham gia cải cách hành chính, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí kết quả thấp.

2- Công tác tuyên truyền, giáo dục CNVCLĐ

Công tác tuyên truyền, giáo dục trong CNVCLĐ được đẩy mạnh ở các cấp CĐ với nhiều nội dung, hình thức đa dạng, phong phú, nội dung tuyên truyền tập trung chủ đề về Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, về GCCN và tổ chức CĐVN, về những khó khăn, thách thức của đất nước khi VN gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO); tổ chức học tập, quán triệt và xây dựng, thực hiện Chương trình hành động của CĐ thực hiện NQ Đại hội X  của Đảng; Thực hiện NQ hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành TW Đảng (khoá X) về đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, TLĐ và nhiều LĐLĐ tỉnh, TP, CĐ ngành TW đã xây dựng Chương trình hành động, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức, CNLĐ và vai trò giám sát của CĐ trong việc phát hiện, phản ánh, ngăn chặn và dũng cảm  đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí từ cơ sở. Công tác tuyên truyền, giáo dục trong nữ CNVCLĐ, nhất là tuyên truyền giáo dục pháp luật, về chế độ chính sách đối với lao động nữ và trẻ em, kiến thức về giới và gia đình được quan tâm hơn. Các hoạt động văn hoá, thể thao được tổ chức rộng khắp trong cả nước, thu hút đông đảo người lao động tham gia, tạo không khí sôi nổi, vui tươi, lành mạnh.

 Hoạt động báo chí của tổ chức CĐ đúng tôn chỉ, mục đích, được dư luận xã hội, các cấp CĐ đánh giá cao. Trang Thông tin điện tử CĐ trên internet của TLĐ và một số địa phương, ngành đã thường xuyên thông tin về tình hình CNVCLĐ, kết quả hoạt động CĐ, phổ biến chính sách, pháp luật, những chủ trương và định hướng công tác đến CĐ các cấp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác CĐ.

Một số CĐ ngành, địa phương, cơ sở đã phối hợp với các cơ quan liên quan và DN mở các lớp dạy nghề, bổ túc văn hoá cho CNLĐ, vận động người sử dụng lao động tổ chức và tạo điều kiện để người lao động tham gia học tập, nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề. TLĐ đã quyết định chuyển các trường dạy nghề CĐ thành các trường trung cấp nghề để phù hợp với qui định của Nhà nước. Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS và phòng chống ma tuý trong CNVCLĐ được tổ chức với nhiều hình thức phong phú… góp phần ngăn chặn và hạn chế tệ nạn ma tuý nói chung.  

Công tác tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị luôn được các cấp CĐ quan tâm. Trong năm, đã có hàng vạn đoàn viên CĐ ưu tú được kết nạp vào Đảng.

Công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học đã tập trung nghiên cứu về nội dung, phương pháp hoạt động CĐ trong cơ chế thị trường định hướng XHCN; tổ chức và hoạt động CĐ trong DNNN đã CPH; về môi trường, ATVS LĐ…

Tuy đã tập trung tuyên truyền về chính sách pháp luật nhưng kết quả còn hạn chế, công tác tuyên truyền, giáo dục cho CNLĐ ở khu vực DNTN và DN có vốn ĐTNN gặp nhiều khó khăn vì thời giờ làm việc của công nhân rất căng thẳng và thiếu cơ sở vật chất cho công nhân học tập. Hình thức, nội dung tuyên truyền chưa phù hợp với điều kiện sống và làm việc của NLĐ. Chưa coi trọng công tác tuyên truyền về pháp luật lao động và CĐ cũng như tuyên truyền chống mọi biểu hiện tiêu cực, nhất là tệ tham nhũng, lãng phí cho CNLĐ và người sử dụng lao động ở khu vực NQD. Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng, những bức xúc nảy sinh ở người lao động và những phát sinh trong quan hệ lao động còn thiếu kịp thời.

3- Công tác nghiên cứu, tham gia xây dựng, kiểm tra giám sát thực hiện pháp luật, chính sách, chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ và các hoạt động xã hội của CĐ.

Trong năm 2006, TLĐ và các cấp CĐ đã tập trung nghiên cứu, lấy ý kiến tham gia xây dựng các dự án luật, chính sách như: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ luật Lao động (liên quan đến đình công và giải quyết đình công), Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy nghề, Luật Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, Luật Bình đẳng giới, Pháp lệnh Dân chủ cơ sở, cùng nhiều chính sách, chế độ khác liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ và tổ chức CĐ, đặc biệt là tham gia xây dựng chính sách tiền lương, chính sách đối với lao động dôi dư khi CPH DNNN, tuổi nghỉ hưu của lao động nữ… Đồng thời, từ thực tiễn tại cơ sở, CĐ đã phát hiện những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách, kiến nghị các cơ quan liên quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.

Công tác tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý của 10 trung tâm, 31 văn phòng và 87 tổ tư vấn pháp luật thuộc CĐ các cấp đã góp phần nâng cao kiến thức pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hàng ngàn CNVCLĐ.

Thực hiện sự chỉ đạo của TLĐ, các LĐLĐ tỉnh, TP, CĐ ngành TW đã tổ chức hội thảo, lấy ý kiến đánh giá 15 năm thực hiện luật CĐ. Từ thực tiễn hoạt động của CĐ các cấp cho thấy: Luật CĐ năm 1990 đã góp phần quan trọng phát huy vai trò CĐ, đảm bảo quyền dân chủ, lợi ích người lao động.

Việc thực hiện pháp luật lao động ở khu vực DNNN nhìn chung có chuyển biến tích cực. Năm 2006, đã có 93 % DNNN mở Đại hội CNVC và 97% cơ quan mở Hội nghị cán bộ, công chức; tỷ lệ DN có TƯLĐTT ở DNNN là 96%, DNNQD 26%, DN có vốn ĐTNN 46%. Tỷ lệ người lao động có HĐLĐ ở DNNN là 96% (64% là HĐLĐ không xác định thời hạn), DNNQD 84% (21% là HĐLĐ không xác định thời hạn), DN có vốn ĐTNN 85% (15% là HĐLĐ không xác định thời hạn).

Tuy nhiên, vấn đề đáng quan tâm là: Vai trò đại diện của CĐ ở DNNN đã CPH, DNTN và DN có vốn ĐTNN còn mờ nhạt; hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân sau khi có luật Thanh tra và Nghị định của Chính phủ có chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu; việc bỏ phiếu tín nhiệm một số chức danh cán bộ quản lý, công khai tài chính gặp nhiều vướng mắc; nhiều địa phương còn lúng túng trong việc chỉ đạo CĐCS xã, phường, thị trấn tổ chức hội nghị CBCC. Nhà nước chưa có hướng dẫn cụ thể về thực hiện qui chế dân chủ ở các Cty cổ phần và Cty TNHH.

Công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện luật CĐ, luật Lao động và chính sách, chế độ được các cấp CĐ phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên thực hiện. TLĐ đã phối hợp với Bộ LĐTBXH, Phòng Thương mại và Công nghiệp VN tiến hành kiểm tra tại 42 DN đóng trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố về thực hiện luật Lao động và luật CĐ. Qua kiểm tra cho thấy vi phạm của DN chủ yếu vẫn là về thời gian làm việc, trả lương chậm, không xây dựng thang bảng lương, không thực hiện đầy đủ chế độ BHXH, BHYT, không ký HĐLĐ, không ký TƯLĐTT, không trích nộp kinh phí CĐ, không thực hiện đầy đủ chính sách, chế độ đối với lao động nữ… Quan hệ giữa người sử dụng lao động và tổ chức CĐ cũng còn nhiều bất cập.

Nhằm góp phần tạo sự hài hoà trong quan hệ lao động, TLĐ và Phòng Thương mại và Công nghiệp VN phối hợp tổ chức gặp mặt đại diện trên 100 DN có vốn ĐTNN ở 3 tỉnh, TP trọng điểm (TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương). ý kiến chung cho rằng giải pháp duy nhất để tạo sự hài hoà trong quan hệ lao động là người lao động và người sử dụng lao động phải chấp hành tốt pháp luật.

Các cấp CĐ đã chủ động, tích cực tham gia các hoạt động Tuần lễ quốc gia về ATVSLĐ và PCCN lần thứ 8 năm 2006 với nhiều hình thức, nội dung phong phú. Đã có 11.157 cơ sở được kiểm tra, trong đó có 5.059 cơ sở được liên ngành kiểm tra về ATVSLĐ, riêng TLĐ đã kiểm tra, hướng dẫn công tác BHLĐ tại 38 LĐLĐ địa phương, 13 CĐ ngành TW và 151 cơ sở. Điều đáng quan tâm là nhiều lao động (phần lớn là lao động nữ) trong các ngành cao su, dệt may, chế biến thuỷ sản bị giảm sút sức khoẻ khi tuổi đời còn trẻ, đề nghị được giảm tuổi nghỉ hưu hoặc được nghỉ hưu trước tuổi vì phải làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, bị mắc bệnh do tác động của nghề nghiệp.

Số vụ TNLĐ năm 2006 vẫn tăng và tính chất ngày càng nghiêm trọng. Tính đến 10/11/2006, theo báo cáo chưa đầy đủ, cả nước đã xảy ra 412 vụ TNLĐ chết người, làm chết 467 người, tăng 35,52% số vụ và 38, 57% số người chết so với cùng kỳ năm 2005. Trên thực tế số vụ tai nạn lao động còn nhiều hơn, do chủ sử dụng lao động không khai báo theo qui định.

 Nguyên nhân chính để xảy ra TNLĐ do chủ sử dụng lao động thiếu quan tâm cải thiện điều kiện làm việc, người lao động thiếu ý thức chấp hành nội qui ATVSLĐ; công tác quản lý nhà nước về ATLĐ còn nhiều bất cập, nặng về thủ tục hành chính; mạng lưới ATVS viên ở nhiều cơ sở hoạt động kém hiệu quả; việc điều tra, xác minh, xử lý vi phạm chậm, chưa có tác dụng giáo dục và ngăn ngừa.

Trong năm qua, CNVCLĐ luôn là lực lượng nòng cốt, đóng góp chủ yếu trong các cuộc vận động xã hội, nhân đạo, từ thiện do MTTQ và CĐ các cấp phát động. Nổi bật nhất là Chương trình “Mái ấm CĐ”, “Chung tay chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ”, ủng hộ xây dựng tượng đài “Bà mẹ VN anh hùng”; các đợt ủng hộ  nhân dân, CNVCLĐ các địa phương bị bão, lũ lụt, hỗ trợ CNVCLĐ nghèo xây dựng nhà ở… Tuy nhiên, theo phản ánh của các cấp CĐ, hiện nay người lao động phải đóng góp quá nhiều các loại quĩ tại cơ quan, DN, đoàn thể và địa phương.

TLĐ đã ban hành Chương trình và Qui chế quản lý quĩ nhà ở “Mái ấm CĐ” nhằm hỗ trợ, chăm lo cho CNVCLĐ gặp khó khăn về nhà ở, phấn đấu đến năm 2015 xoá bỏ 100% nhà tạm, nhà hư hỏng trong CNVCLĐ.

Từ đầu năm đến 30/11/2006, Quĩ hỗ trợ giải quyết việc làm TLĐ và các LĐLĐ tỉnh, TP đã cho vay từ nguồn vốn mới và vốn thu hồi 288 dự án với tổng số tiền gần 18,5 tỉ đồng, hỗ trợ giải quyết việc làm cho 7.280 lao động trong 3.562 hộ gia đình CNVCLĐ, tạo thêm thu nhập cho người lao động từ 200.000 đến 300.000 đồng/tháng. Ngoài ra, nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố còn thực hiện việc bảo lãnh, tín chấp cho người lao động vay vốn qua nhiều hình thức với số tiền hàng trăm tỷ đồng, hỗ trợ giải quyết việc làm và tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống cho hàng vạn gia đình CNVCLĐ. Hoạt động của 10 trường dạy nghề và trung tâm giới thiệu việc làm của tổ chức CĐ đã tư vấn việc làm cho hơn 51.000 người, giới thiệu việc làm gần 10.000 người, dạy nghề ngắn hạn và dài hạn gần 30.000 người.

4- Phát triển đoàn viên, đào tạo bồi dưỡng cán bộ và xây dựng tổ chức CĐ

Năm 2006, “Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên” theo tinh thần NQ đại hội IX CĐVN được các cấp CĐ tập trung chỉ đạo thực hiện. Các cấp CĐ đã phát triển mới 465.331 đoàn viên, thành lập mới 5.366 CĐCS, nâng tổng số đoàn viên lên 5.768.133 người và 87.613 CĐCS. Bên cạch số đoàn viên và CĐCS tăng thì số giảm là 160.000 đoàn viên và 453 CĐCS. Nguyên nhân chủ yếu là do sắp xếp lại DN số lao động dôi dư nghỉ chế độ và một phần do công nhân bỏ việc tại các DN. Đặc biệt, với sự chủ động nghiên cứu và trách nhiệm của tổ chức CĐ, theo đề nghị của Đoàn Chủ tịch TLĐ, ngày 14/9/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 96/2006/NĐ- CP, Hướng dẫn thi hành Điều 153 Bộ luật Lao động về Ban Chấp hành CĐ lâm thời tại DN. Đây là văn bản qui phạm pháp luật quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho CĐ trong công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS .

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được các cấp CĐ quan tâm chỉ đạo thực hiện và có sự chuyển biến rõ rệt. Trong năm, theo báo cáo chưa đầy đủ, có gần 20 vạn lượt cán bộ CĐCS được tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ công tác CĐ và trên 1000 lượt cán bộ CĐ được học chính trị, ngoại ngữ, tin học. TLĐ đã phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế tập huấn cho 50 giảng viên kiêm chức và 100 cán bộ CĐ khu vực DN có vốn ĐTNN; đã ban hành “Qui chế tạm thời về việc thành lập, tổ chức quản lý quĩ hỗ trợ cán bộ CĐCS” nhằm  bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ CĐ tại cơ sở; Chỉ thị số 02/ CT- TLĐ của Đoàn Chủ tịch TLĐ về việc tuyển cử cán bộ CĐ đi công tác cơ sở.

Xuất phát từ thực tiễn hoạt động CĐ, TLĐ đã triển khai nghiên cứu mô hình tổ chức và nội dung hoạt động trong các DNNN chuyển thành tập đoàn kinh tế, công ty mẹ- công ty con; mô hình tổ chức CĐ Dệt- May VN; nghiên cứu một số vấn đề thuộc nội dung Điều lệ và định hướng nội dung báo cáo chuẩn bị cho Đại hội X CĐVN… Song, hiện nay việc thành lập các công đoàn ngành địa phương, các ban chuyên đề thuộc LĐLĐ tỉnh, thành phố thiếu thống nhất, tạo cấp trung gian, gây khó khăn cho hoạt động của CĐCS; việc chuyển giao CĐCS giữa LĐLĐ tỉnh, TP và CĐ ngành TW thực hiện chậm, hiện vẫn còn trên 200 CĐCS chưa bàn giao, tập trung chủ yếu trên địa bàn TP Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh.

TLĐ đã tổ chức nghiên cứu và tổng kết về tình hình tổ chức và kết quả hoạt động của CĐ cấp huyện từ năm 2000 đến 2005. Bước đầu khẳng định CĐ cấp huyện đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng, phát triển đội ngũ CNVCLĐ, thực hiện các nhiệm vụ chính trị và đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động trên địa bàn; xác định phương hướng củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của CĐ cấp huyện trong thời gian tới. Song cán bộ CĐ còn mỏng, hoạt động còn hành chính, sự vụ nên hiệu quả chưa cao.

Để nâng cao chất lượng công tác xây dựng CĐCS và NĐ vững mạnh cho phù hợp với từng loại hình cơ sở, TLĐ đã nghiên cứu sửa đổi và ban hành Thông tri 01 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007, trong đó hướng CĐCS và NĐ tập trung vào thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, tham gia quản lý và vận động đoàn viên tham gia hoạt động CĐ.

Tuy nhiên, số DNNQD có tổ chức CĐ còn thấp so với số DN đủ điều kiện theo qui định. Công tác thống kê, báo cáo định kỳ về tình hình đoàn viên của các LĐLĐ tỉnh, TP, CĐ ngành TW chưa chính xác. Một số địa phương, ngành chưa kịp thời nắm được sự biến động của đoàn viên CĐ. Công tác đào tạo, tuyển dụng cán bộ còn nhiều lúng túng, việc đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật cho cán bộ CĐ chưa được nhiều. Chương trình, nội dung đào tạo chưa phù hợp. Hoạt động của CĐCS ở DNNN đã CPH hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu và ở DN có vốn ĐTNN ngày càng khó khăn hơn, rõ nhất là việc tham gia quản lý và kiểm tra, giám sát, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp người lao động còn rất hạn chế; đội ngũ cán bộ CĐ vẫn hoạt động như trong DNNN, chưa phù hợp với loại hình DN đa sở hữu.

 5- Hoạt động đối ngoại:  Trong năm 2006, TLĐ đã cử nhiều đoàn với hàng trăm lượt cán bộ CĐ các cấp đi công tác nước ngoài và đón các đoàn đại biểu CĐ các nước cùng nhiều cán bộ, chuyên gia vào thăm và làm việc với CĐVN. Các quan hệ quốc tế song phương và đa phương được mở rộng và tăng cường theo đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập quốc tế. Thông qua các hoạt động đối ngoại đã tranh thủ trao đổi kinh nghiệm hoạt động với CĐ các nước và nhận được sự đồng tình, ủng hộ, sự hợp tác, hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính của CĐ các nước, của tổ chức lao động quốc tế (ILO), của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Với sự hợp tác và hỗ trợ của các tổ chức CĐ các nước, hàng trăm lượt cán bộ tham gia các khoá tập huấn, hội thảo với nhiều chủ đề về lao động, CĐ, cơ chế ba bên... Hoạt động đối ngoại của các cấp CĐ đã góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, nâng cao vị thế của CĐVN.

TLĐLĐVN và Liên hiệp Quốc tế các CĐ tự do (ICFTU) phối hợp tổ chức thành công Hội nghị Mạng lưới lao động khu vực Châu á Thái Bình Dương lần thứ 12 trước thềm Hội nghị thượng đỉnh APEC- 2006. Tham dự hội nghị bao gồm 40 đại biểu đại diện đến từ các nền kinh tế thành viên APEC, các trung tâm CĐ toàn quốc các nền kinh tế APEC, các CĐ ngành nghề quốc tế, các tổ chức CĐ khu vực và quốc tế, nhằm “Hướng tới một cộng đồng APEC phát triển bền vững và đảm bảo các quyền của người lao động, khuyến nghị các nhà lãnh đạo APEC thông qua các biện pháp cụ thể thúc đẩy sự tham gia của CĐ trong APEC và thông qua việc thành lập Diễn đàn Lao động APEC.

6-  Công tác tài chính và hoạt động kinh tế CĐ.

Trong năm 2006, các cấp CĐ đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp triển khai thực hiện thu kinh phí CĐ, ước tính thu đạt 103% kế hoạch và chi đạt 105% kế hoạch, góp phần phục vụ tốt các hoạt động của tổ chức CĐ và phong trào CNVCLĐ. Công tác quyết toán có nhiều tiến bộ, trên 80% nộp quyết toán đúng thời gian qui định, chất lượng tốt hơn. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương, tình trạng thất thu kinh phí CĐ khu vực NQD còn khá phổ biến, chỉ đạt 20- 25%. Nguyên nhân chủ yếu là do trách nhiệm của Ban thường vụ, Ban chấp hành một số ngành, địa phương, cơ sở chưa cao, bộ máy cán bộ làm công tác tài chính còn nhiều hạn chế. Việc quản lý tài chính, tài sản CĐ một số nơi còn bị buông lỏng, chi tiêu chưa đúng qui định của Nhà nước và của TLĐ.

Hiện nay, tổ chức CĐ có 58 Cty TNHH 1 thành viên, 02 Cty cổ phần, 04 đơn vị khoán kinh doanh, 02 đơn vị cho thuê, 01 DN liên doanh. Riêng năm 2006 đã thực hiện chuyển đổi thêm 23 DN sang Cty TNHH 1 thành viên, 02 DN sang Cty cổ phần và mô hình khác, còn 8 DN chưa thực hiện việc sắp xếp, chuyển đổi. Hiệu quả hoạt động kinh tế CĐ năm 2006 đã có chuyển biến khá hơn, 49/55 DN báo cáo có lãi, thu nhập của người lao động ổn định cao nhất đạt 2,5 triệu đồng/người/tháng, thấp nhất 700.000 đồng/người/tháng . Song, hiệu quả sử dụng vốn còn thấp, chỉ đạt 01 đồng lợi nhuận trên 47.000 đồng vốn; thu cho ngân sách CĐ không đáng kể.

Công tác đầu tư xây dựng cơ bản được TLĐ thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tập trung bố trí vốn giải quyết thanh toán dứt điểm các công trình đã hoàn thành những năm trước đây, chỉ duyệt và bố trí vốn cho các công trình trọng điểm nằm trong kế hoạch  Nhà  nước, không duyệt các công trình mới; đã khởi công xây dựng Trung tâm hội nghị CĐVN.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và Chương trình hành động của CĐ thực hiện luật Phòng chống tham nhũng và luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, TLĐ đã ban hành Hướng dẫn thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan CĐ.

7- Hoạt động của UBKT: (UBKT có báo cáo riêng).

8- Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện từng bước được đổi mới.

Tổng Liên đoàn và các cấp CĐ đã xây dựng và thực hiện tương đối tốt, chương trình, kế hoạch công tác năm 2006 với những nội dung, biện pháp cụ thể.

Đoàn Chủ tịch TLĐ và LĐLĐ tỉnh, TP, CĐ ngành TW đã tổ chức nhiều cuộc điều tra, khảo sát, hội thảo, để đánh giá khách quan tình hình và tìm giải pháp cho nhiều vấn đề của phong trào CNVCLĐ và hoạt động CĐ.

Việc kiểm tra thực hiện kế hoạch công tác của CĐ cấp dưới được coi trọng hơn.

Tập thể Đoàn Chủ tịch đã làm việc với một số LĐLĐ tỉnh, TP, ngành trọng điểm để nắm chắc tình hình CNVCLĐ và hoạt động CĐ.

Cơ quan TLĐ và một số LĐLĐ địa phương, CĐ ngành TW đã duy trì tốt chế độ giao ban công tác hàng tháng, xây dựng lịch sinh hoạt hàng tuần, góp phần nâng cao hiệu quả chỉ đạo các mặt hoạt động.

Thường trực Đoàn Chủ tịch đã chỉ đạo, thực hiện một số cuộc hội thảo về Định hướng chuẩn bị xây dựng nội dung Đại hội X CĐVN. Chế độ thông tin, báo cáo, công tác văn thư, lưu trữ trong hệ thống CĐ từng bước đi vào nề nếp. Việc ứng dụng tin học đã góp phần phục vụ tốt hơn cho công tác chỉ đạo điều hành ở cơ quan CĐ các cấp.

Nhiều LĐLĐ tỉnh, TP đã tổ chức hội nghị liên tịch đánh giá kết quả phối hợp hoạt động giữa CĐ với chính quyền và các ngành, đoàn thể cùng cấp trong việc tổ chức thực hiện các NQ Liên tịch và Chương trình phối hợp.

Việc thực hiện một số NQ Liên tịch, Chương trình phối hợp đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động CĐ. Song, do phải phối hợp thực hiện nhiều NQ Liên tịch và Chương trình phối hợp nên CĐCS không có điều kiện thực hiện đầy đủ theo sự chỉ đạo của CĐ cấp trên. Một số việc triển khai chậm, hiệu quả thấp, thậm chí không triển khai chỉ đạo thực hiện.

III- ĐÁNH GIÁ CHUNG

Hoạt động CĐ trong năm 2006 đã có những đổi mới về tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở. Nhiều phong trào thi đua do TLĐ phát động mang lại  hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng vào phát triển KTXH của đất nước. Công tác tuyên truyền giáo dục và các hoạt động xã hội diễn ra sôi nổi, rộng khắp với nhiều nội dung, hình thức đa dạng, phong phú.

Đặc biệt CĐ đã kiên trì kiến nghị và được Chính phủ chấp nhận giải quyết vấn đề tiền lương tối thiểu trong khu vực FDI; gia hạn thời gian thực hiện NĐ41 về giải quyết lao động dôi dư do CPH DNNN; tham gia sửa đổi Bộ luật Lao động (chương XIV về đình công).

Các cấp CĐ đã tích cực tham gia xây dựng và kiểm tra việc thực hiện luật pháp, chính sách, chế độ ở cơ sở; tích cực tham gia giải quyết việc làm, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, có vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp lao động và đình công, góp phần ổn định quan hệ lao động và SXKD ở cơ sở. Chương trình phát triển đoàn viên, xây dựng CĐCS được tập trung chỉ đạo thực hiện và đạt nhiều kết quả ở tất cả các ngành, địa phương. Công tác chỉ đạo đã tập trung cho những vấn đề chủ yếu, cố gắng tránh dàn trải, giải quyết những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở.

Tuy nhiên, ở một số ngành, địa phương, tổ chức và phương thức hoạt động CĐ chưa theo kịp với tình hình mới, nhất là: Một số CĐ cấp trên cơ sở chưa làm tròn vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho CNVCLĐ, chưa có nhiều hoạt động tích cực hỗ trợ cho cơ sở. Công tác tuyên truyền đối với người lao động ở khu vực ngoài quốc doanh nội dung, hình thức chưa đổi mới nên kết quả còn hạn chế, tốc độ phát triển đoàn viên, xây dựng CĐCS còn chậm so với sự phát triển của DN. ở nhiều DNNN đã CPH, vai trò CĐ bị giảm sút. Việc triển khai nghiên cứu, xây dựng tổ chức và phương thức hoạt động CĐ trong các loại hình DN còn chậm. Cán bộ CĐ cấp trên cơ sở chưa thật sự sát cơ sở, còn hoạt động hành chính, trình độ nghiên cứu, đề xuất giải pháp còn yếu. Việc tổ chức hội thi, hoạt động văn hoá, thể thao quá nhiều, chưa có sự lồng ghép nội dung với các hội nghị để giảm bớt hội họp, gây khó khăn cho cơ sở.

Phần thứ hai
NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA CÁC CẤP CÔNG ĐOÀN NĂM 2007

 Năm 2007, là năm cả hệ thống tổ chức CĐ tập trung chỉ đạo thực hiện kế hoạch Đại hội CĐ các cấp, tiến tới Đại hội X CĐVN, năm bầu cử Quốc hội khóa XII. Đặc biệt sự ổn định chính trị xã hội, nhất là khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); tổ chức thành công hội nghị APEC, khẳng định vị thế của Việt Nam ngày càng được củng cố, cùng với những thành tựu đã đạt được trên các mặt sẽ tạo thời cơ, thuận lợi lớn cho việc thu hút các nguồn lực cả trong và ngoài nước để đầu tư phát triển. Tuy nhiên,  nền kinh tế nước ta vẫn đang ở trình độ phát triển thấp, qui mô nhỏ, sức cạnh tranh yếu; cạnh tranh giữa các DN sẽ găy gắt hơn, một bộ phận DN làm ăn kém hiệu quả sẽ bị phá sản, CNLĐ mất việc làm; trình độ của đội ngũ lao động còn nhiều hạn chế, nhất là trình độ chuyên môn, nghề nghiệp và tác phong công nghiệp còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu của sự phát triển.

Lực lượng lao động ở các DN NQD và DN có vốn ĐTNN sẽ tiếp tục phát triển nhanh và thường xuyên chuyển dịch nên công tác tuyên truyền, giáo dục, tập hợp đội ngũ, tổ chức các mặt hoạt động CĐ sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại hơn. Việc hình thành các tập đoàn kinh tế, công ty mẹ- con, DN đa sở hữu trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN đặt ra cho tổ chức CĐ yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ về mô hình tổ chức cũng như nội dung, phương thức hoạt động, nhằm tập hợp đông đảo người lao động tham gia vào tổ chức CĐ, thích ứng với sự thay đổi về cơ cấu của đội ngũ CNVCLĐ.

 Mối quan hệ lao động sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp hơn. Đặc biệt, một số thế lực đang tiến hành tuyên truyền, chia rẽ, lôi kéo CNLĐ dưới một số hình thức tổ chức nghiệp đoàn độc lập, đòi hỏi các cấp CĐ phải chủ động  phối hợp với các cơ quan chức năng kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật, bảo đảm cho việc thành lập tổ chức CĐ theo qui định của pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động.

Đội ngũ cán bộ CĐ, nhất là cán bộ không chuyên trách và ở CĐCS khu vực kinh tế NQD, có vốn ĐTNN còn nhiều biến động, hạn chế về trình độ, năng lực công tác CĐ, nguồn thu tài chính CĐ sẽ gặp khó khăn là những thách thức lớn đối với hoạt động CĐ trong thời gian tới.

 Từ thực tiễn dự báo tình hình, căn cứ vào Nghị quyết Đại hội IX CĐVN và những nhiệm vụ đã được Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn thông qua tại hội nghị lần thứ 7 (tháng 7/2006) và Chương trình hành động của CĐVN thực hiện Nghị quyết Đại hội X Đảng cộng sản VN, năm 2007, các cấp CĐ cần tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau:

1- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục trong CNVCLĐ.

- Tổ chức học tập, phổ biến, quán triệt những nội dung cơ bản Nghị quyết Đại hội X  của Đảng và Chương trình hành động của CĐ Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng đến đoàn viên CĐ và CNVCLĐ.

- Tập trung tuyên truyền trong CNVCLĐ và người sử dụng lao động về CĐ và Đại hội CĐ các cấp, về những khó khăn, thách thức của đất nước, của DN và của người lao động khi Việt Nam đã là thành viên WTO. Nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm trạng, kiến nghị của CNVCLĐ để đề xuất những biện pháp cụ thể với Đảng, Nhà nước giải quyết kịp thời .

- Tập trung triển khai đến các cấp CĐ, đoàn viên và người sử dụng lao động nội dung Chương XIV Bộ luật Lao động vừa được Quốc hội khoá XI thông qua.

- Triển khai thực hiện sâu rộng, thiết thực, hiệu quả Chỉ thị của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong CNVCLĐ và các cấp CĐ. Tiếp tục thực hiện NQ 02 của Đoàn Chủ tịch TLĐ về đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tình hình mới.

- Vận động cán bộ, CNVCLĐ tích cực phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí tại cơ sở; tham gia xây dựng Đảng, giới thiệu đoàn viên CĐ ưu tú cho Đảng bồi dưỡng kết nạp. Phát hiện, giới thiệu những cán bộ trưởng thành từ phong trào công nhân và hoạt động CĐ bổ sung cho các cơ quan Đảng, Nhà nước và Quốc hội khoá XII.

 - Chỉ đạo thực hiện cụ thể hoá nội dung phong trào xây dựng “Cơ quan, đơn vị văn hoá” và tổ chức các hoạt động VHTT phù hợp với từng loại hình cơ sở, góp phần thực hiện lợi ích thiết thực của CNLĐ, nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần cho người lao động trong DN và cơ quan, đơn vị.

- Phát động phong trào học tập nâng cao trình độ chính trị, học vấn, tay nghề trong CNVCLĐ, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng của các trường dạy nghề và trung tâm dịch vụ việc làm của CĐ, góp phần đào tạo nguồn nhân lực nói chung.

- Tiếp tục thực hiện NQ Liên tịch số 01 giữa TLĐ với Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia về tuyên truyền, vận động CNVCLĐ đảm bảo TTATGT. Đẩy mạnh công tác truyền thông về DS - KHHGĐ, phòng chống ma tuý, phòng chống HIV/AIDS trong CNVCLĐ.

- Coi trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền giáo dục và báo cáo viên của các cấp CĐ. Nâng cao chất lượng tuyên truyền của các cơ quan báo chí CĐ. Phát triển các cụm văn hoá - thể thao ở cơ sở. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động các nhà Văn hoá Lao động, câu lạc bộ theo tinh thần QĐ 813/QĐ- TLĐ ngày 31/4/2004 của Đoàn Chủ tịch TLĐ.

- Tiếp tục nghiên cứu đổi mới phương pháp tuyên truyền giáo dục cho phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt là đội ngũ báo cáo viên ở cơ sở.

2- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong CNVCLĐ, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển KTXH đất nước năm 2007.

- Tổ chức tốt các phong trào thi đua do Đại hội IX Công đoàn Việt Nam  phát động gắn với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Đại hội X của Đảng đề ra, trọng tâm là phong trào lao động giỏi, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, thực hành tiết kiệm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao đời sống cho CNVCLĐ.

- Trước mắt, trong quý I/2007 phát động đợt thi đua đặc biệt lập thành tích “Mừng Đảng-mừng xuân, mừng đất nước hội nhập, chào mừng ngày bầu cử Quốc hội khoá XII”. Đăng ký thực hiện công trình, sản phẩm chào mừng đại hội CĐ các cấp  và Đại hội X CĐVN.

- Tiếp tục chỉ đạo phong trào thi đua liên kết trên các công trình trọng điểm của đất nước. Cụ thể hoá nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức chỉ đạo các phong trào thi đua phù hợp với từng địa phương, ngành nghề, loại hình DN.

- Nghiên cứu và có các biện pháp phù hợp trong việc phát động thi đua ở khu vực kinh tế NQD đảm bảo có hiệu quả trên cả 3 mặt: Lợi ích người lao động, lợi ích Nhà nước và lợi ích của DN.

- Kịp thời nhân rộng điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua, động viên khen thưởng kịp thời những đơn vị, cá nhân có thành tích. Thực hiện tốt Luật thi đua khen thưởng và Quy chế về khen thưởng của TLĐ. Nghiên cứu giải thưởng của tổ chức CĐ công nhận và khen tặng CNLĐ tiêu biểu.

3- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tham gia xây dựng kiểm tra và hướng dẫn thực hiện pháp luật, chính sách có liên quan đến CNVCLĐ và CĐ. Chăm lo đời sống, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, đẩy mạnh các hoạt động xã hội của CĐ.

 - Chủ động nghiên cứu, tham gia xây dựng luật pháp, chính sách chế độ có liên quan đến CNVCLĐ và tổ chức CĐ theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2007 của Quốc hội. Tổ chức tập huấn luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động. Tham gia với Bộ Lao động-TBXH xây dựng đề án thành lập Uỷ ban quan hệ lao động cấp Quốc gia. Triển khai kế hoạch khảo sát, đánh giá thực hiện Luật Công đoàn.

- Tham gia đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả của DNNN và quá trình cổ phần hoá DNNN. Kiểm tra phát hiện những vướng mắc trong chính sách tiền lương, tiền công, kiến nghị giải quyết tình trạng nợ lương, nợ BHXH và BHYT; liên tục tham gia với Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách đảm bảo tiền lương sao cho tiền lương dần dần trở thành động lực để phát triển sản xuất, kinh doanh, là nguồn sống chính của CNVCLĐ. Kiến nghị xây dựng chế độ đối với lao động dôi dư khi tiếp tục sắp xếp lại DNNN phù hợp với yêu cầu mới.

- Tham gia với Chính phủ có chính sách cụ thể về nhà ở cho CNVCLĐ. Các LĐLĐ địa phương, CĐ ngành TW tham gia với chính quyền, chuyên môn thực hiện chương trình xây dựng nhà ở tại các địa phương, để bán cho người lao động có thu nhập thấp theo phương thức thích hợp để người lao động có thể mua được nhà.

- Hướng dẫn, kiểm tra việc ký kết HĐLĐ và TƯLĐTT, tổ chức Đại hội CNVC trong công ty nhà nước theo qui định tại Thông tư liên tịch số 01 ngày 16/5/2005 của Tổng Liên đoàn LĐVN và Bộ LĐTB và Xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt động CĐ tham gia xây dựng và thực hiện qui chế dân chủ cơ sở trong cơ quan, đơn vị, DN, những đơn vị cổ phần hoá nhà nước không giữ cổ phần chi phối. Xây dựng và hướng dẫn tổ chức thực hiện NĐ của Chính phủ về “Qui chế dân chủ cơ sở ở các loại hình DN là Cty TNHH, công ty cổ phần”.

- Phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu đổi mới việc tổ chức “Tuần lễ quốc gia ATVSLĐ và PCCN” lần thứ 9. Triển khai Chương trình Quốc gia về BHLĐ, ATLĐ, VSLĐ đến năm 2010 trong các cấp CĐ. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học BHLĐ, ATVS LĐ và bảo vệ môi trường.

- Phối hợp với cơ quan chức năng cùng cấp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về lao động và CĐ, nhất là  các DN NQD và DN có vốn ĐTNN về xây dựng và ký TƯLĐTT,  xây dựng thang bảng lương, giải quyết việc nợ, tiền lương làm thêm giờ và tăng ca, thực hiện chế độ BHXH, BHYT, chính sách đối với lao động dôi dư, chính sách ưu đãi đối với lao động nữ...

- Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động các văn phòng tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý của CĐ cho người lao động để biết thực hiện nghĩa vụ và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình.

- Phát hiện kịp thời những điểm nóng, những yêu cầu chính đáng của CNLĐ, có biện pháp, tích cực cùng với các cấp có thẩm quyền kịp thời giải quyết và kiến nghị chủ doanh nghiệp cũng như Nhà nước giải quyết, hạn chế tới mức thấp nhất các cuộc đình công trái pháp luật.

- Định kỳ tổ chức gặp gỡ, đối thoại giữa CNLĐ và tổ chức Công đoàn với người sử dụng lao động theo từng lĩnh vực và đối tác để trao đổi thông tin và phối hợp giải quyết những khó khăn vướng mắc từ thực tiễn đặt ra.

- Tham gia với Nhà nước xây dựng chiến lược và thực hịên tốt chương trình giải quyết việc làm. Huy động, quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn vay để giải quyết việc làm cho người lao động. Củng cố, quản lý, sử dụng có hiệu quả các loại quỹ hiện có. Tổ chức rộng rãi các hoạt động tương thân tương ái giúp CNLĐ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn tìm kiếm việc làm, ổn định cuộc sống. Tiếp tục triển khai Chương trình “mái ấm CĐ”.  Triển khai thí điểm Quỹ hỗ trợ cán bộ CĐ ở 5 đơn vị theo chủ trương của TLĐ, sơ kết rút kinh nghiệm để nhân rộng ra toàn hệ thống.
4- Tập trung chỉ đạo đại hội CĐ các cấp. Tiếp tục thực hiện chương trình phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các cấp CĐ cho phù hợp với từng loại hình cơ sở. Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ. Củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS.

- Tập trung chỉ đạo đại hội CĐ các cấp theo hướng đổi mới nội dung, tổ chức hoạt động CĐ phù hợp với tình hình mới.

- Tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS ở các loại hình DN. Sớm có hướng dẫn thực hiện Nghị định 96/CP của Chính phủ về thực hiện Điều 153 thành lập BCHCĐ lâm thời. Nghiên cứu cải tiến phương pháp quản lý đoàn viên, nắm chắc số đoàn viên, CĐCS phát triển mới và số đoàn viên bị giảm sút do sắp xếp, chuyển đổi hình thức quản lý, phá sản DN. Chủ động nắm và tập hợp đoàn viên không để người lao động nghe theo những luận điệu phản tuyên tuyên truyền.

- Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng kinh nghiệm và quan điểm chỉ đạo của Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam để chuẩn bị Đại hội CĐ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ X Công đoàn Việt Nam. Triển khai thực hiện Kế hoạch Đại hội CĐ các cấp; hướng dẫn tổ chức Đại hội CĐCS và hướng dẫn công tác chuẩn bị nhân sự BCH CĐ các cấp.

- Chỉ đạo công tác xây dựng CĐCS, NĐ vững mạnh, nhất là ở khu vực kinh tế NQD. Chú trọng xây dựng CĐ cấp trên cơ sở để có đủ năng lực hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động của CĐCS. Tập trung qui hoạch, tạo nguồn, tuyển chọn, luân chuyển cán bộ, đa dạng hoá mô hình đào tạo nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và có chế độ đãi ngộ nhằm khuyến khích đối với cán bộ tăng cường cơ sở. Nghiên cứu, đề xuất với TW tháo gỡ những vướng mắc trong công tác tổ chức, cán bộ của CĐ.

- Nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức và nội dung hoạt động CĐ phù hợp với các lọai hình sở hữu, đặc biệt đối với CĐ ở khu vực NQD. Kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của CĐ cấp huyện. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung qui định về tổ chức và hoạt động của CĐCS xã, phường, thị trấn. Chấn chỉnh việc thành lập các công đoàn ngành địa phương, các ban chuyên đề đảm bảo tính thống nhất, tập trung trong lãnh đạo, chỉ đạo của TLĐ, thực hiện dứt điểm việc chuyển giao CĐCS theo qui định của TLĐ. 

- Thường xuyên tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng công tác CĐ cho cán bộ không chuyên trách ở tất cả các thành phần kinh tế. Sớm nghiên cứu cải tiến, xây dựng nội dung tài liệu huấn luyện cán bộ CĐCS cho phù hợp với từng loại hình tổ chức. Có chính sách tương xứng với chủ trương đề cao vai trò cán bộ CĐCS.

- Nghiên cứu sử dụng có hiệu quả tiền lương cán bộ CĐ NQD từ nguồn hỗ trợ của Chính phủ và sớm có hướng dẫn thực hiện phụ cấp cho chủ tịch CĐCS kiêm nhiệm.

- Chủ động xây dựng kế hoạch và phân công cán bộ chuẩn bị đề án tham gia với Trung ương Đảng khi có chủ trương xây dựng Nghị quyết về giai cấp công nhân.

5- Công tác đối ngoại.

-  Trên cơ sở đường lối đối ngoại của Đảng; nghiên cứu xây dựng chiến lược đối ngoại của CĐ phù hợp với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

- Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhằm tranh thủ hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính trong việc trao đổi kinh nghiệm hoạt động; đào tạo nâng cao trình độ cán bộ, nhất là về phương thức hoạt động, kinh nghiệm giải quyết các mối quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường.

- Kiến nghị với Đảng phân cấp quản lý công tác đối ngoại cho tổ chức CĐ phù hợp với đường lối của Đảng và chương trình cải cách hành chính.
6- Công tác tài chính, kinh tế.

- Hoạt động tài chính phải minh bạch, tập trung phục vụ cho CĐCS và cấp trên trực tiếp của cơ sở.

- Tăng cường công tác quản lý tài chính, tài sản CĐ. Chỉ đạo kiên quyết công tác thu kinh phí và đoàn phí CĐ, nhất là khu vực NQD, chống thất thu và thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước và TLĐ về trích nộp, phân phối, chi tiêu tài chính công đoàn. Hoàn thành đề án kinh phí hoạt động CĐ. Bổ sung, sửa đổi qui định phân phối ngân sách CĐ và chế độ chi tiêu của CĐCS.

- Chỉ đạo chặt chẽ tiết kiệm chi quản lý hành chính, chống lãng phí trong mua sắm tài sản. Quản lý chặt chẽ công tác đầu tư xây dựng cơ bản. Tăng cường công tác kiểm tra quản lý tài chính đối với các cấp CĐ. Thực hiện việc khoán chi hành chính ở cơ quan TLĐ và cơ quan CĐ các cấp.

- Tiếp tục củng cố, sắp xếp lại các cơ sở kinh tế của CĐ theo đúng quy định của Nhà nước và hướng dẫn của TLĐ. Trước mắt tập trung xem xét sắt xếp, củng cố và xác định rõ hướng sản xuất kinh doanh của các đơn vị làm ăn kém hiệu quả. Mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước.

7- Đổi mới công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện

- Hoạt động của CĐ các cấp cần tránh dàn trải, phải lựa chọn những vấn đề then chốt, trọng tâm, trọng điểm cụ thể hoá thành từng nhiệm vụ, phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế của ngành, địa phương, cơ sở và chỉ đạo thực hiện dứt điểm trong từng thời gian. Tăng cường hoạt động và hướng hoạt động của các CĐ cấp trên cơ sở vào việc giúp CĐCS một số việc cụ thể, trọng tâm liên quan trực tiếp đến quyền lợi thiết thân của người lao động. Năm 2007, là năm hướng về cơ sở, tập trung mọi hoạt động cho cơ sở.

- Tăng cường công tác kiểm tra thực hiện Điều lệ CĐVN và việc triển khai thực hiện các nghị quyết của ĐCT và BCH TLĐ khoá IX.

- Chỉ đạo tổng kết các chuyên đề nghiên cứu chuẩn bị Đại hội CĐ các cấp tiến tới Đại hội X CĐVN.

- Kiên quyết khắc phục bệnh hành chính, quan liêu và bệnh hình thức, phô trương, lãng phí.

- Nâng cao chất lượng công tác thông tin, báo cáo trong hệ thống CĐ. Thiết lập đường dây nóng ở cấp tỉnh, ngành TW và TLĐ để xử lý kịp thời tình hình tranh chấp lao động, đình công và những vấn đề đột xuất xảy ra ở cơ sở.

- Đổi mới hơn nữa phương thức hoạt động, đi sâu đi sát cơ sở, chống bệnh hành chính trong chỉ đạo phong trào, đưa phong trào CNVCLĐ và hoạt động CĐ nước ta phát triển mạnh mẽ, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu KTXH của đất nước trong năm 2007.

Trên đây là Báo cáo tổng kết năm 2006 và những nhiệm vụ chủ yếu trong năm 2007. Trên cơ sở định hướng chung, từng cấp CĐ cần cụ thể hoá thành chương trình công tác cho phù hợp với đặc điểm, tình hình, yêu cầu thực tiễn của địa phương, ngành, cơ sở, có chỉ tiêu, nội dung, biện pháp và định thời gian phấn đấu thực hiện.

                           TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH
                     Chủ tịch
                      Đã ký: Đặng Ngọc Tùng