CÔNG ĐOÀN BƯU ĐIỆN VIỆT NAM - 30 Hàng Chuối Hà Nội  
NỘI DUNG VĂN BẢN
 
Thuộc tính văn bản Văn bản liên quan Download văn bản Bản in

BÁO CÁO SỐ: 35/BC-TLĐ
NGÀY  06  THÁNG 7 NĂM 2005
CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Kết quả hoạt động công đoàn 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2005

I- một số tình hình liên quan đến CNVCLĐ.

Từ đầu năm đến nay, mặc dù chịu ảnh hưởng nhiều biến động của tình hình quốc tế và phải đối mặt với hạn hán, dịch bệnh kéo dài, cháy rừng liên tiếp xảy ra kinh tế – xã hội nước ta tiếp tục phát triển theo hướng tích cực, tốc độ tăng GDP đạt 7,6%. So với cùng kỳ năm 2004, sản xuất công nghiệp tăng 15,4%, trong đó khu vực DNNN tăng 10,4%, khu vực NQD tăng 24,4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 23,2%, nhập khẩu tăng 22,4%. Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách, từ đầu tư trực tiếp nước ngoài đều tăng khá. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục duy trì nhịp độ phát triển.

Tuy nhiên, kết quả sản xuất kinh doanh đạt được vẫn thấp hơn so với chỉ tiêu kế hoạch năm 2005. Tình hình hạn hán nặng nề trên diện rộng gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp, gây thiếu điện nghiêm trọng tại các tỉnh phía Bắc đã ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Giá nhiên, nguyên vật liệu trên thế giới thường xuyên biến động đã ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất và giảm sức cạnh tranh; trật tự và an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp; tai nạn giao thông xảy ra thường xuyên, có vụ đặc biệt nghiêm trọng, gây nhiều bức xúc trong nhân dân.

Sự phát triển nhanh của các khu công nghiệp tại nhiều tỉnh đã thu hút các doanh nghiệp đầu tư, giải quyết việc làm tại chỗ cho hàng vạn lao động địa phương, hạn chế tình trạng chuyển dịch lao động từ tỉnh này sang tỉnh khác, giảm số lượng người nhập cư tại các tỉnh, thành phố có công nghiệp phát triển như TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương… Tính chung những tháng đầu năm, đã có hơn 45 vạn người được giải quyết việc làm và hơn 2,1 vạn người đi xuất khẩu lao động.

Việc chuyển, xếp lương mới cho cán bộ, CNVC được các ngành, địa phương tập trung chỉ đạo nhưng kết quả thực hiện còn chậm. Thu nhập của người lao động trong các khu vực không đồng đều và trong các ngành cũng rất khác nhau do hiệu quả sản xuất kinh doanh, do lợi thế độc quyền. Khu vực hành chính sự nghiệp, thu nhập của CNVC ổn định ở mức thấp, phổ biến khoảng 1 triệu đồng/người/tháng. Khu vực sản xuất, kinh doanh, tiền lương chỉ tăng đối với viên chức hưởng lương thời gian, còn CNLĐ sản xuất trực tiếp mức lương mới chỉ là căn cứ để nộp BHXH, thu nhập chủ yếu phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh. Tại các DNNN thu nhập của CNVCLĐ trung bình khoảng 800.000 đồng - 3 triệu đồng/người/tháng; DNNN địa phương thu nhập từ 520.000 đồng - 1,2 triệu đồng/người/tháng. Doanh nghiệp NQD trong nước, thu nhập của CNLĐ thấp hơn, khoảng 400.000 đồng – 1 triệu đồng/người/tháng. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN, thu nhập của CNLĐ từ 800.000 đồng - 3,2 triệu đồng/người/tháng; nếu tính riêng công nhân trực tiếp sản xuất, thu nhập bình quân chỉ đạt 800.000 đồng - 1,3 triệu đồng/người/tháng. Tiền lương, thu nhập của CNLĐ các nông, lâm trường đạt thấp, khoảng 500.000 đồng/người/tháng. Thu nhập của người lao động tại các cơ quan, văn phòng đại diện cho các tổ chức nước ngoài, trung bình từ 3 - 5 triệu đồng/người/tháng, mức cao có thể lên tới hàng chục triệu đồng.

Do giá cả các mặt hàng thiết yếu hầu hết đều tăng, hệ số trượt giá bình quân 6 tháng đầu năm 2005 vẫn còn ở mức cao (5,2%) nên đã ảnh hưởng lớn tới đời sống của đại bộ phận CNVCLĐ.

Nhà ở cho người lao động ngoại tỉnh làm việc ở các tỉnh, thành phố, khu công nghiệp tập trung và giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo vẫn là vấn đề rất bức xúc. Một số DN có chủ trương làm nhà ở cho người lao động, nhưng do không có quỹ đất và cơ chế chính sách chưa rõ ràng nên gặp khó khăn trong quá trình thực hiện.

Tình trạng DN không đóng BHXH cho người lao động vẫn tái diễn và ngày càng nghiêm trọng. Qua kiểm tra cho thấy, số lao động được tham gia BHXH ở các DN NQD chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số lao động. Đa số các DN này chỉ đóng cho nhân viên hành chính với mức thấp hơn nhiều so với thu nhập thực tế. Nhiều DN nợ BHXH hàng tỷ đồng, tập trung ở các DN gia công hàng dệt - may, da - giày, DN làm ăn thua lỗ kéo dài.

Tính đến 30/6, cả nước xảy ra 68 cuộc đình công, tăng 14 cuộc so với cùng kỳ năm 2004. Địa bàn xảy ra đình công nhiều nhất là TP Hồ Chí Minh 25 cuộc, Đồng Nai 16 cuộc, Bình Dương 5 cuộc, Đà Nẵng 3 cuộc, các địa phương khác 19 cuộc. Phân theo loại hình DN: DNNN xảy ra 1 cuộc; DN NQD 16 cuộc; DN có vốn ĐTNN 51 cuộc. Trong đó tại DN có vốn đầu tư Hàn Quốc xảy ra 24 cuộc, Đài Loan 11 cuộc, với đối tác khác 16 cuộc. Số cuộc đình công ở khối DNNN giảm, ở khối DN có vốn ĐTNN tăng. Số lượng DN NQD phát triển rất nhanh nên nếu tính theo số cuộc (số tuyệt đối) thì đình công tăng, nhưng nếu tính theo tỷ lệ các DN thì đình công giảm. Đình công diễn ra vào mọi thời điểm trong năm và trên địa bàn rộng, không chỉ ở các thành phố công nghiệp trọng điểm phía nam mà các tỉnh miền bắc, miền trung gần đây cũng xảy ra nhiều. Đã xuất hiện đình công có tính chất lan truyền từ DN này sang DN khác và có nơi đã xuất hiện khẩu hiệu, tờ rơi dán ở nơi công cộng. Có cuộc do bị lợi dụng, kích động CNLĐ đã đập phá nhà làm việc, tụ tập, hò hét, trèo qua hàng rào vào DN, đả kích giới chủ, gây ảnh hưởng xấu trong quan hệ lao động và trật tự xã hội trên địa bàn. Có cuộc đình công phức tạp, quy mô lớn, thời gian kéo dài tới 12 ngày. Đáng chú ý, cuộc đình công của 10.000 công nhân tại Công ty TNHH Keyhing Toys (100% vốn Hồng Kông) đóng tại thành phố Đà Nẵng là cuộc đình công có CNLĐ tham gia đông nhất từ trước đến nay.

Nguyên nhân của các vụ đình công chủ yếu vẫn bắt nguồn từ những vi phạm pháp luật của người sử dụng lao động, trong đó phổ biến là vi phạm về chế độ trả lương, kéo dài thời gian làm việc trong ngày, điều kiện lao động không đảm bảo, nhiều quy định của DN quá khắt khe, người quản lý DN hành xử thô bạo, hà khắc, xúc phạm danh dự người lao động. Khi xảy ra đình công, các LĐLĐ tỉnh, thành phố, quận, huyện và công đoàn khu công nghiệp đã chủ động phối hợp với cơ quan chức năng tham gia giải quyết.

Tâm trạng chung của đại bộ phận CNVCLĐ bất bình với tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước thoái hoá, biến chất; lo lắng về việc làm, thu nhập của bản thân và con trẻ đến tuổi trưởng thành; tình hình giá cả các mặt hàng thiết yếu ngày càng tăng cao; tệ tham nhũng, lãng phí, tai nạn giao thông và tệ nạn xã hội không giảm và ngày càng diễn biến phức tạp. Cán bộ, CNVCLĐ rất đồng tình, ủng hộ Đảng, Nhà nước, các ngành chức năng xử lý kiên quyết các vụ tiêu cực. Đòi hỏi các cơ quan chức năng tiếp tục có những giải pháp hiệu quả hơn trong công tác đấu tranh chống tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, hạn chế tai nạn giao thông; ngăn chặn các hiện tượng ăn chơi sa đoạ trong một bộ phận thanh thiếu niên.

II- Hoạt động công đoàn.

Từ đầu năm đến nay, hoạt động của các cấp Công đoàn trong cả nước tập trung thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:

1- Công tác tuyên truyền, giáo dục và tổ chức các phong trào thi đua.

Công tác tuyên truyền, giáo dục của các cấp công đoàn tập trung vào dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước (75 năm thành lập Đảng, 30 năm giải phóng miền nam, 115 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) với nội dung, hình thức đa dạng, phong phú; góp phần làm cho CNVCLĐ hiểu biết sâu sắc hơn về lịch sử quang vinh của Đảng CSVN, về thân thế, sự nghiệp vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước… Các hoạt động văn hoá, thể thao được các cấp CĐ tổ chức rộng khắp trong cả nước, thu hút đông đảo người lao động tham gia, tạo không khí sôi nổi, vui tươi, lành mạnh và làm phong phú thêm đời sống tinh thần của CNVCLĐ. Tổng Liên đoàn LĐVN đã phối hợp với một số cơ quan tổ chức hội thảo khoa học “Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam”; Liên hoan nghệ thuật quần chúng chào mừng Đảng CSVN; chương trình ca nhạc “Đảng cho ta mùa Xuân”; chương trình giao lưu văn nghệ đặc biệt mang tên “Bài ca lao động” và chương trình “Vượt qua thử thách” với chủ đề về Ngày Quốc tế lao động 1-5. Đặc biệt các cấp công đoàn thuộc các tỉnh, thành phố phía nam đã tích cực tham gia các hoạt động chào mừng 30 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và ngày giải phóng địa phương. Trong dịp này, hàng ngàn công nhân ưu tú đã được xem  xét, kết nạp Đảng. TLĐ đã phối hợp với Bộ Công an, Đài Truyền hình Việt Nam, Hội đồng Thi đua khen thưởng nhà nước, Ban Thi đua khen thưởng trung ương tổ chức chương trình “Vinh quang Việt Nam  lần thứ 3” tôn vinh các tập thể và cá nhân Anh hùng trong lực lượng cảnh sát nhân dân.

Công tác tuyên truyền về giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trên sóng phát thanh, truyền hình trung ương và địa phương được Tổng Liên đoàn và LĐLĐ các tỉnh, thành phố coi trọng. Nhiều chương trình về lao động và công đoàn có nội dung phong phú, bám sát thực tế, phản ánh sinh động phong trào công nhân và hoạt động công đoàn; nêu kiến nghị của đoàn viên và các vấn đề bức xúc của người lao động. Các báo, tạp chí, bản tin, nhà xuất bản của tổ chức Công đoàn đã tập trung tuyên truyền về những sự kiện lịch sử của đất nước, địa phương, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, về những DN làm ăn giỏi; điều tra, phản ánh những vụ việc tiêu cực, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, được dư luận xã hội và người lao động đánh giá cao. Tổng Liên đoàn đã cùng với Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam ký kết nội dung phối hợp nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn. Nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố thường xuyên phối hợp với các cơ quan báo chí, đài phát thanh và truyền hình địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền về công nhân và công đoàn. TLĐ đã biên soạn, in ấn và phát hành tờ gấp tuyên truyền phát triển đoàn viên khu vực NQD đến cơ sở. Các cấp CĐ đã tích cực tuyên truyền chế độ chính sách mới có liên quan đến người lao động. Đẩy mạnh cuộc vận động chống tham nhũng, tiêu cực gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, việc triển khai công tác tuyên truyền ở cơ sở, nhất là đối với CNLĐ sản xuất trực tiếp gặp rất nhiều khó khăn vì thời giờ làm việc khắt khe và định mức lao động cao. Cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền đối với cơ sở cho phù hợp với tình hình.

Sau hội nghị lần thứ 4 BCH Tổng Liên đoàn, các cấp công đoàn đã tích cực triển khai tuyên truyền thực hiện 2 nghị quyết về “Nâng cao hiệu quả hoạt động CĐ tham gia xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp” và “Nâng cao trình độ học vấn và nghề nghiệp của CNVCLĐ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”. Để góp phần nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp và ý thức chấp hành pháp luật trong đoàn viên, CNVCLĐ, TLĐ phối hợp với Tổng cục Dạy nghề Bộ LĐTBXH, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tổ chức các lớp dạy nghề, bổ túc văn hoá cho công nhân, vận động người sử dụng lao động tổ chức và tạo điều kiện để mọi người tham gia học tập. Nhiều ngành, địa phương đã biên soạn các nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật phù hợp điều kiện thực tiễn cơ sở, giúp CNVCLĐ hiểu rõ và tự giác chấp hành. Một số nơi đã thành lập trung tâm (hoặc văn phòng) tư vấn pháp luật; chỉ đạo các cấp công đoàn thành lập tổ tư vấn pháp luật tại các CĐ ngành và chuyên viên tư vấn pháp luật tại các DN; xây dựng tủ sách pháp luật ở CĐ các cấp; tổ chức tập huấn cho cán bộ CĐ làm công tác pháp luật. Đến nay, hệ thống công đoàn đã có 7 trung tâm, 19 văn phòng và 73 tổ tư vấn pháp luật, góp phần quan trọng vào việc tư vấn, nâng cao hiểu biết về pháp luật cho người lao động. Tuy nhiên việc thực hiện nâng cao trình độ học vấn, tay nghề cho CNLĐ là rất khó khăn, do hầu hết các DN không bố trí thời gian cho công nhân học tập, cơ sở vật chất cho lĩnh vực này cũng thiếu. Người lao động chú trọng đến việc làm và thu nhập mà chưa quan tâm nhiều đến việc nâng cao trình độ.

Trước tình hình TNXH ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, Tổng Liên đoàn đã chỉ đạo LĐLĐ các tỉnh, thành phố tổ chức nhiều hoạt động truyền thông với hình thức đa dạng, phong phú như hỏi đáp, nói chuyện chuyên đề, phát tờ gấp nhằm đưa công tác tuyên truyền xuống tận người lao động. Thực hiện chủ trương của Uỷ ban quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm và hưởng ứng tháng chiến dịch truyền thông phòng chống AIDS đợt 1 năm 2005 và tháng hành động phòng chống ma tuý, Tổng Liên đoàn đã chỉ đạo các LĐLĐ tỉnh, thành phố, công đoàn ngành TW xây dựng kế hoạch tuyên truyền đến các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị; tổ chức các cuộc mít tinh, diễu hành, hội thảo, tập huấn nâng cao nhận thức về phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS và phòng chống ma tuý; phối hợp với một số cơ quan chức năng và Văn phòng Dự án SMARTWork tổ chức Hội thảo “Phối hợp quản lý một cách chiến lược các giải pháp phòng chống HIV/AIDS tại nơi làm việc”. Thực hiện Nghị quyết 47 của Bộ Chính trị TW Đảng và Chỉ thị của Đoàn Chủ tịch TLĐ về công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, các LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW đã quan tâm hơn tới việc chỉ đạo công tác này, nhiều nơi đã kiểm điểm và tiến hành đăng ký sinh đẻ tới từng CNLĐ 6 tháng đầu năm, các phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Xanh, sạch, đẹp - bảo đảm ATVSLĐ”, “Thi đua liên kết phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn”… lập thành tích xuất sắc chào mừng các ngày kỷ niệm của đất nước đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp trong CNVCLĐ cả nước. Phong trào đăng ký, thực hiện các công trình, sản phẩm, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, giải pháp hữu ích được nhiều đơn vị, cá nhân hưởng ứng, tạo ra hàng nghìn công trình, sản phẩm mới, chất lượng cao, mang lại hiệu quả KTXH thiết thực. Thực hiện Chỉ thị 04 của Đoàn Chủ tịch TLĐ về phát động đợt thi đua đặc biệt phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2005 và kế hoạch 5 năm (2001-2005), lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp, tiến tới đại hội lần thứ X của Đảng, chào mừng đại hội thi đua CNVCLĐ toàn quốc và đại hội thi đua toàn quốc lần thứ VII, 100% LĐLĐ các tỉnh, thành phố, công đoàn ngành TW đã phát động, tổ chức cho các đơn vị, DN đăng ký thi đua. Tính đến ngày 31/5/2005, đã có 35/84 LĐLĐ tỉnh, thành phố và Công đoàn ngành TW tổ chức Hội nghị thi đua điển hình tiên tiến trong CNVCLĐ, đánh giá kết quả của phong trào thi đua 5 năm qua, biểu dương, tôn vinh, khen thưởng các tập thể, cá nhân, các điển hình tiên tiến có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua; chỉ ra những mặt còn hạn chế, tồn tại cần khắc phục và phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới.

Tổng Liên đoàn và Tổng cục Chính trị QĐNDVN tổng kết 10 năm phối hợp hoạt động và ký Nghị quyết Liên tịch giai đoạn 2005 - 2010 về “Phối hợp tuyên truyền vận động CNVCLĐ, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước”.

Để động viên các phong trào thi đua, 5 tháng đầu năm 2005, TLĐ đã xét tặng 467 cờ thưởng các loại, 4203 bằng khen của BCH TLĐ, 421 bằng lao động sáng tạo. Đoàn Chủ tịch TLĐ đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng 6 cờ thi đua, 28 huân chương, 64 bằng khen cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc.

2- Tham gia quản lý, xây dựng, kiểm tra, giám sát thực hiện luật pháp, chính sách, tăng cường các hoạt  động xã hội, giải quyết việc làm, chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CNVCLĐ.

Công tác xây dựng pháp luật, đặc biệt là pháp luật lao động được các cấp công đoàn chú trọng, tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Trong 6 tháng qua, các cấp công đoàn đã tổ chức lấy ý kiến đóng góp xây dựng 13 dự án luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư và nhiều chính sách, chế độ có liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ và CĐ như: Dự thảo Luật Nhà ở; Luật BHXH; dự án Bộ Luật Dân sự sửa đổi; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các cuộc đình công; Nghị định về tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân; Nghị định về xử phạt hành chính hành vi vi phạm pháp luật lao động; Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện tổ chức Đại hội CNVC trong công ty nhà nước; Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện việc khai báo, điều tra, lập biên bản, thống kê và báo cáo định kỳ tai nạn lao động…

Đoàn Chủ tịch TLĐ và lãnh đạo Bộ Lao động TBXH đã tổ chức hội nghị đánh giá kết quả thực hiện chương trình phối hợp năm 2004, xây dựng chương trình phối hợp năm 2005, hướng trọng tâm vào các nội dung tham gia xây dựng chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động như Luật Bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các cuộc đình công...

Các cấp công đoàn đã tuyên truyền, phổ biến  chế độ tiền lương mới, tham gia thực hiện xét chuyển lương cho cán bộ, CNVC. Chỉ đạo các cấp công đoàn tập hợp những kiến nghị, vướng mắc trong quá trình thực hiện, đảm bảo quyền lợi của CNVCLĐ. Tổng Liên đoàn đã tổ chức hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện quy định về Công đoàn giải quyết và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo. Qua tổng kết đã có 30.698 lượt người lao động được giải quyết các quyền lợi hợp pháp, chính đáng.

Việc tổ chức đại hội công nhân viên chức và hội nghị cán bộ công chức được các cấp công đoàn chủ động phối hợp với chính quyền, người sử dụng lao động thực hiện. Đến hết tháng 5, phần lớn các đơn vị đã hoàn thành việc tổ chức đại hội CNVC và hội nghị CBCC. Gần 90% trong số các đơn vị chưa tổ chức đại hội CNVC là do sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hoặc đang chuẩn bị sắp xếp, chuyển đổi sở hữu. Nhìn chung, nội dung đại hội, hội nghị đã đề cập đến những vấn đề thiết thực có liên quan trực tiếp đến người lao động, nhiều ý kiến đóng góp cho hoạt động của đơn vị, tạo không khí dân chủ, cởi mở trong quan hệ lao động. Nhiều DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần vẫn duy trì tốt việc xây dựng và ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, có sửa đổi, bổ sung một số điểm trong quy chế cho phù hợp với mô hình quản lý mới. Trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chủ doanh nghiệp thường viện lý do luật không qui định và tìm mọi cách lảng tránh việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ. Nhìn chung ở đâu chủ sử dụng lao động hiểu và quan tâm, tạo điều kiện cho công đoàn hoạt động thì việc xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ có thuận lợi hơn.

Vai trò của công đoàn ở một số doanh nghiệp NQD và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn mờ nhạt trong việc đại diện người lao động đề xuất, kiến nghị những chế độ chính sách lao động liên quan; hoạt động của Ban thanh tra nhân dân nhiều nơi kém hiệu quả; việc bỏ phiếu tín nhiệm một số chức danh cán bộ quản lý, công khai tài chính gặp nhiều vướng mắc, chưa góp phần phát huy dân chủ trong tham gia xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh và chống những biểu hiện tiêu cực, nhất là tham nhũng, lãng phí… Một số nơi tỷ lệ đơn vị tổ chức đại hội CNVC thấp. Một số nơi lúng túng trong việc chỉ đạo CĐCS xã, phường, thị trấn tổ chức hội nghị CBCC, không biết thực hiện theo Nghị định 71/1998 (về thực hiện quy chế dân chủ ở các cơ quan hành chính nhà nước) hay theo Nghị định 79/2003 (về thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn) và trong chỉ đạo đại hội CNVC tại công ty cổ phần và DN NQD vì chưa có hướng dẫn cụ thể.

Công tác tham gia sắp xếp DNNN, giải quyết chế độ, chính sách đối với lao động dôi dư tiếp tục được các cấp công đoàn quan tâm thực hiện. Các LĐLĐ tỉnh, thành phố, công đoàn ngành TW đã tổ chức tuyên truyền và tập huấn chính sách mới về cổ phần hoá và sửa đổi chính sách đối với lao động dôi dư; tham gia cùng chính quyền đồng cấp hoàn chỉnh các phương án sắp xếp DNNN, tập trung giám sát kiểm tra việc tổ chức giải quyết chế độ chính sách cho người lao động.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Đoàn Chủ tịch TLĐ đã có Chỉ thị số 01/CT-TLĐ về việc tăng cường quản lý ngân sách công đoàn, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong hệ thống công đoàn. Các cấp công đoàn đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý thu, phân phối và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách công đoàn, đảm bảo chủ động phục vụ hoạt động công đoàn và phong trào CNVCLĐ theo đúng quy định của pháp luật.

Tổng Liên đoàn LĐVN đã chủ động và tích cực tham gia các hoạt động Tuần lễ quốc gia về ATVSLĐ và PCCN lần thứ 7, tổ chức tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; tổ chức hội nghị tổng kết công tác BHLĐ năm 2004 và tổ chức hội thảo, gian trưng bày với chủ đề “An toàn vệ sinh lao động - phòng chống cháy nổ trong các lĩnh vực sản xuất có nhiều nguy cơ về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp”; đi thăm và tặng quà các gia đình nạn nhân bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Tính chung, các cấp công đoàn trong cả nước đã thăm hỏi, tặng quà 1250 gia đình nạn nhân bị TNLĐ, bệnh nghề nghiệp. Nhiều địa phương, ngành, cơ sở, công đoàn đã phối hợp cùng chính quyền tổ chức các hoạt động như: tuyên truyền về ATVSLĐ - PCCN trên các phương tiện thông tin đại chúng; phát động phong trào trồng cây xanh, đảm bảo cảnh quan, môi trường nơi làm việc, nhà xưởng Xanh - sạch - đẹp; tổ chức cuộc thi “An toàn vệ sinh viên giỏi”; Tổ chức khám sức khoẻ cho gần 400 nghìn người lao động; tham gia kiểm tra liên ngành về BHLĐ ở 3150 cơ sở và độc lập kiểm tra ở 2275 cơ sở, mở trên 1500 lớp với trên 384 nghìn người được huấn luyện về BHLĐ. Đã  in và phát hành 450 nghìn tờ gấp, tranh ảnh, áp phích, hơn 60 nghìn băng rôn, khẩu hiệu và các tài liệu tuyên truyền về ATVSLĐ-PCCN được phát hành tới tận cơ sở. Riêng Tổng Liên đoàn đã biên soạn, in và phát hành 11.200 áp phích, tranh cổ động và trên 32 nghìn tờ gấp các loại về ATVSLĐ. Hưởng ứng ngày Môi trường thế giới với chủ đề “Thành phố xanh, cơ hội cho hành tinh chúng ta”, TLĐ đã tổ chức mít tinh, diễu hành, trồng cây xanh và triển lãm “Công đoàn với công tác bảo vệ môi trường” tại thành phố Việt Trì. Nhiều địa phương, ngành đã có những hoạt động hưởng ứng chủ đề trên. Tuy nhiên, công tác khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động ở khu vực kinh tế NQD nhìn chung không thực hiện nghiêm nên việc bảo vệ sức khoẻ cho người lao động còn hạn chế, chậm phát hiện các bệnh nghề nghiệp.

Tai nạn lao động vẫn xảy ra nghiêm trọng, làm bị thương và chết nhiều người, đặc biệt tại các công trình đang thi công và khai thác than. 6 tháng đầu năm, ngành Công nghiệp xảy ra 21 vụ làm 21 người chết, trong đó riêng Tổng công ty Than là 15 người. Đồng Nai xảy ra 147 vụ làm chết 11 người, bị thương 136 người. TP Hồ Chí Minh xảy ra 22 vụ , làm chết 23 người, bị thương 6 người. Bà rịa – Vũng tàu xảy ra 23 vụ, làm chết 2 người, bị thương 25 người. Bình Dương xảy ra 8 vụ làm 8 người chết. Đà Nẵng riêng vụ sập giàn giáo xây dựng đã làm 17 công nhân bị thương, trong đó 9 người bị thương nặng; Hoà Bình vụ nổ hầm lò khai thác than đã làm 6 người chết… Đa số người chết là công nhân trẻ ở độ tuổi từ 25 đến 30. Trên thực tế, số lượng các vụ TNLĐ còn lớn hơn rất nhiều, nhất là ở khu vực kinh tế NQD. Nguyên nhân chủ yếu là người sử dụng lao động và trong một số trường hợp cả người lao động đã vi phạm các quy định của Nhà nước về ATVSLĐ; nhiều nơi người sử dụng lao động và người lao động, nhất là lao động tự do, hợp đồng thời vụ, ngắn hạn không được huấn luyện về ATLĐ; công tác thanh tra, kiểm tra không được tiến hành thường xuyên; tình trạng vi phạm, nguy cơ dẫn đến TNLĐ không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời; việc điều tra, xác minh, xử lý vi phạm chậm, chưa có tác dụng giáo dục và ngăn ngừa; mạng lưới ATVS viên ở một số cơ sở hoạt động kém hiệu quả.
Các hoạt động xã hội của công đoàn được đẩy mạnh với nhiều hình thức phong phú. CNVCLĐ luôn là lực lượng nòng cốt, đóng góp chủ yếu và đi đầu trong việc thực hiện các cuộc vận động xã hội, nhân đạo, từ thiện. Trong dịp Tết Nguyên đán, các ngày lễ kỷ niệm của đất nước các cấp công đoàn đều có những hoạt động  thăm hỏi, hỗ trợ cho các đối tượng gia đình chính sách, gia đình CNLĐ nghèo, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Điển hình là hoạt động của Quĩ Tấm lòng vàng Lao động, Chương trình “10.000 bánh chưng giúp bệnh nhân nghèo ăn Tết”. Với tinh thần tương thân tương ái, CNVCLĐ cả nước đã quyên góp được 1,7 tỷ đồng ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam. Tổng Liên đoàn đã tài trợ 230 triệu đồng xây dựng 10 căn nhà để nuôi dưỡng, phục hồi chức năng cho các cháu bị nhiễm chất độc da cam của tỉnh Thái Bình và hỗ trợ trên 300 triệu đồng để mở lớp đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho các cháu bị nhiễm chất độc da cam từ 18 tuổi trở lên. Thực hiện chương trình hành động công đoàn tham gia xoá đói, giảm nghèo trong CNVCLĐ, nhiều LĐLĐ tỉnh, TP, công đoàn ngành TW đã đa dạng các nguồn vốn vay, lập quỹ “trợ vốn cho người lao động nghèo”, thành lập quỹ tiết kiệm “vì phụ nữ nghèo” tại cơ sở và địa phương. Nhiều nơi đã chỉ đạo công đoàn cấp dưới vận động CNVCLĐ mua công trái giáo dục

Từ đầu năm đến nay, Tổng Liên đoàn đã cho vay từ nguồn vốn mới và vốn đến hạn thu hồi 81 lượt dự án với số tiền 6.407 triệu đồng, hỗ trợ giải quyết việc làm cho 2.325 lượt lao động, trong số 1.644 lượt hộ vay. Ngoài ra, các cấp công đoàn ở nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố còn thực hiện việc bảo lãnh, tín chấp cho người lao động vay vốn qua nhiều hình thức khác nhau với số tiền hàng trăm tỷ đồng. Hầu hết các dự án triển khai đều đúng đối tượng, đúng mục đích, có hiệu quả, số nợ quá hạn không lớn.

 3- Công tác phát triển đoàn viên, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức Công đoàn.

Thực hiện chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên, ngay từ đầu năm, các LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW đã xây dựng kế hoạch, tổ chức khảo sát và giao chỉ tiêu cụ thể cho các đơn vị.  Tính đến 31/5/2005, công đoàn cả nước đã kết nạp mới 549.433 đoàn viên, thành lập mới 6330 CĐCS. Trong đó chủ yếu là phát triển đoàn viên và CĐCS ở khối xã, phường và trường mầm non ngoài công lập. Số lượng đoàn viên và CĐCS giảm do ảnh hưởng trực tiếp của việc sắp xếp lại DNNN, dịch chuyển lao động là 69.234 đoàn viên và 1.051CĐCS. Một số LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW đã vượt chỉ tiêu kế hoạch như: LĐLĐ TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Quảng Ninh, Bình Dương, Thừa Thiên Huế, Công đoàn ngành Công nghiệp, Xây dựng. Tuy nhiên, số đoàn viên bị giảm sút do sắp xếp, chuyển đổi, giải thể DN, nghỉ chế độ trong thực tế còn lớn hơn nhiều, nhưng do công tác thống kê, theo dõi còn bất cập nên không nắm chắc được; việc chậm ban hành Nghị định hướng dẫn điều 153 Bộ luật Lao động về BCH công đoàn lâm thời đã ảnh hưởng đến công tác phát triển đoàn viên và CĐCS.

Việc chấp hành Điều lệ CĐVN của các cấp công đoàn nhìn chung nghiêm túc. Các LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW đã chủ động hướng dẫn Công đoàn cấp dưới tự kiểm tra việc chấp hành Điều lệ. Tuy nhiên, việc chuyển giao và tiếp nhận CĐCS theo Điều lệ CĐVN giữa Công đoàn ngành TW và LĐLĐ tỉnh, thành phố diễn ra chậm chạp, chưa thực hiện đúng chỉ đạo của TLĐ. Việc kết nạp đoàn viên ở những DN mới thành lập CĐCS có đông CNLĐ chưa theo quy định của Điều lệ. Nguyên nhân có nhiều, song chủ yếu là do một số Công đoàn ngành TW và LĐLĐ tỉnh, thành phố chưa có sự phối hợp chặt chẽ. Một số Công đoàn Tổng công ty đã hướng dẫn triển khai, thực hiện đại hội  nhiệm kỳ 5 năm 1 lần đối với CĐCS có đủ điều kiện theo quy định chưa đúng Điều lệ CĐVN như: kéo dài thời gian, chưa đủ cơ sở thành viên cũng cho thực hiện theo nhiệm kỳ 5 năm.

Nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh của tổ chức Công đoàn, đảm bảo sự thống nhất trong phối hợp, thực hiện quyền đại diện cho CNVCLĐ, tránh những vướng mắc trong tổ chức, triển khai hoạt động, Đoàn Chủ tịch TLĐ đã ban hành quy định về việc phối hợp hoạt động  giữa công đoàn ngành TW và Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc TLĐ trong cùng một Bộ. Thực hiện sự chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch TLĐ, đến nay có 8 Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng công ty và một số LĐLĐ tỉnh, thành phố có kế hoạch khảo sát, lập đề án, tổ chức hội thảo nghiên cứu mô hình hoạt động công đoàn trong các DNNN chuyển đổi.

Đảng Đoàn, Đoàn Chủ tịch TLĐ đã phối hợp với Ban Thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ chuẩn bị nhân sự cán bộ Công đoàn chủ chốt tham gia cấp uỷ tại đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội X của Đảng. Chỉ đạo Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh, thành phố bổ sung kịp thời số lượng và chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của BCH, ban thường vụ Công đoàn các cấp. Tập trung triển khai việc chuyển xếp lương mới trong toàn bộ hệ thống Công đoàn, đảm bảo yêu cầu của Đảng và Nhà nước. Tiếp tục kiện toàn, củng cố bộ máy lãnh đạo một số ban, đơn vị trực thuộc TLĐ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ được TLĐ và các cấp CĐ thường xuyên thực hiện. Đoàn Chủ tịch TLĐ đã có Chỉ thị số 02 về việc tuyển cử cán bộ đi công tác cơ sở nhằm hướng mọi hoạt động của cán bộ công đoàn về cơ sở, tập trung cho chương trình phát triển đoàn viên, xây dựng công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn vững mạnh; rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách đội ngũ cán bộ trưởng thành từ thực tiễn hoạt động công đoàn và phong trào công nhân; khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế. Hàng ngàn cán bộ CĐ, nhất là cấp cơ sở được học tập nâng cao trình độ, nghiệp vụ công tác CĐ. Tổng Liên đoàn đã tổ chức tập huấn cho 80 cán bộ công đoàn là giảng viên kiêm chức của 20 Công đoàn ngành TW và 27 LĐLĐ tỉnh, thành phố. LĐLĐ các tỉnh, thành phố và Công đoàn ngành TW đã tổ chức được 267 lớp tập huấn với 23.900 lượt cán bộ được bồi dưỡng về lý luận nghiệp vụ, nội dung, phương pháp hoạt động Công đoàn. Có 28 cán bộ CĐ được đào tạo cao cấp lý luận chính trị.

Các LĐLĐ tỉnh, thành phố, CĐ ngành TW đã kiểm tra, phân loại CĐCS năm 2004. Tính bình quân chung, tỷ lệ CĐCS đạt tiêu chuẩn vững mạnh trở lên đạt 77,8%, chủ yếu tập trung ở doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, khu vực ngoài quốc doanh và nghiệp đoàn tỷ lệ đạt thấp, khoảng 30-40%; việc chấm điểm, đánh giá phân loại nhiều nơi chưa phản ánh đúng thực chất hoạt động CĐ ở cơ sở. Một số LĐLĐ tỉnh, thành phố, công đoàn ngành TW đã tổ chức tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 3b của BCH TLĐ về công tác phát triển đoàn viên, xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh nhằm đánh giá thực trạng công tác này, thấy được những thuận lợi, khó khăn, rút ra bài học kinh nghiệm, phương hướng trong thời gian tới. Tuy nhiên, có nơi do chưa làm tốt công tác chuẩn bị nên việc tổng kết chưa sâu, báo cáo sơ sài, các giải pháp chung chung, hiệu quả không cao.

  4- Công tác nữ công.

Công tác tuyên truyền, giáo dục trong nữ CNVCLĐ được các cấp công đoàn quan tâm. Đông đảo chị em được tuyên truyền và phổ biến chế độ chính sách đối với lao động nữ và trẻ em, pháp luật lao động, kiến thức về giới và gia đình. Kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 và Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, các cấp công đoàn đã có nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao; gặp mặt, toạ đàm ôn lại truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam, trao đổi kinh nghiệm công tác vận động phụ nữ; tổ chức hội thi nữ công gia chánh; tặng quà; tuyên dương, khen thưởng những phụ nữ tiêu biểu trong lao động sản xuất và xây dựng gia đình hạnh phúc. Tổng Liên đoàn đã tổ chức hội nghị gặp mặt phụ nữ tiêu biểu trong phong trào “Ba đảm đang” thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW đã mở các lớp tập huấn nâng cao kiến thức về giới, pháp luật, nghiệp vụ công tác nữ công cho hàng  nghìn nữ  CNVCLĐ và cán bộ CĐ.

 Ngay từ đầu năm, TLĐ và một số ngành, địa phương đã tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện chính sách, chế độ đối với lao động nữ. Qua kiểm tra cho thấy, nhìn chung việc thực hiện chế độ, chính sách đối với lao động nữ ở khu vực nhà nước tương đối tốt, tại các DNNQD còn nhiều sai phạm. Nhiều LĐLĐ địa phương, CĐ ngành đang tích cực phát động quyên góp, chăm lo cho trẻ em nhân tháng hành động vì trẻ em và ngày Gia đình Việt Nam.

Thực hiện sự chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch TLĐ, để chuẩn bị cho hội nghị tổng kết 5 năm phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ CNVCLĐ, đến nay đã có 62/64 LĐLĐ tỉnh, thành phố, 16/20 CĐ ngành TW tổ chức hội nghị. Phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” đã thu hút đông đảo nữ CNVCLĐ thuộc các thành phần kinh tế tham gia. Thông qua phong trào, chị em ngày càng trưởng thành về mọi mặt, khẳng định vị trí, vai trò của mình trong gia đình và xã hội. Đã có hàng triệu lượt chị được công nhận danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” các cấp và hàng trăm chị được lựa chọn tham gia hội nghị cấp TLĐ. Ngày 28/6/2005, tại Hà Nội, Tổng Liên đoàn LĐVN đã tổ chức Hội nghị tổng kết 5 năm phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, có 164 chị đại diện cho nữ CNVCLĐ cả nước về dự.

5- Hoạt động đối ngoại: Trong 6 tháng đầu năm, TLĐ đã cử 47 đoàn với 132 lượt cán bộ CĐ các cấp đi công tác nước ngoài và đón 25 đoàn đại biểu CĐ các nước vào thăm và làm việc với CĐVN. Công tác nghiên cứu phong trào công đoàn quốc tế nhằm cung cấp thông tin cho Đoàn Chủ tịch và CĐ các cấp được duy trì. Với sự hợp tác và hỗ trợ của các tổ chức công đoàn các nước, hàng trăm lượt cán bộ công đoàn đã tham gia các khoá tập huấn, hội thảo với nhiều chủ đề về lao động, công đoàn, cơ chế ba bên...

6- Công tác tài chính: Các cấp công đoàn đã có nhiều cố gắng trong thu kinh phí và đoàn phí công đoàn, đảm bảo cho mọi hoạt động. Tuy nhiên, vẫn còn thất thu nhiều, nhất là ở khu vực kinh tế NQD. Nguyên nhân là do công tác tuyên truyền Luật CĐ và Luật LĐ còn hạn chế, mặt khác, do chưa có chế tài mạnh buộc các DN phải nộp kinh phí công đoàn nên nhiều chủ DN né tránh không nộp kinh phí công đoàn. TLĐ đã ban hành quy định về chế độ thưởng thu nộp ngân sách công đoàn, chế độ thưởng, phạt thu nộp kinh phí công đoàn; quy định về chế độ công tác phí, chế độ chi tiêu hội nghị trong hệ thống công đoàn.

7- Hoạt động của UBKT công đoàn các cấp đã tập trung triển khai chương trình công tác năm 2005, giúp BCH, Ban Thường vụ các cấp kiểm tra việc chấp hành Điều lệ, tiến hành các cuộc kiểm tra tài chính, giải quyết và tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Những hoạt động đó đã góp phần giúp Ban Thường vụ, Ban Chấp hành CĐ các cấp thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình (UBKT có báo cáo riêng).

Tóm lại, mặc dù còn một số hạn chế, hoạt động công đoàn cả nước trong 6 tháng đầu năm nhìn chung đã có khởi sắc, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, vì quyền lợi hợp pháp của đoàn viên và người lao động, đạt nhiều kết quả quan trọng. Công tác tuyên truyền giáo dục và tổ chức các phong trào thi đua, các hoạt động xã hội diễn ra sôi nổi, rộng khắp với nhiều nội dung, hình thức đa dạng, phong phú trong dịp chào mừng các ngày kỷ niệm của đất nước và hướng tới 76 năm thành lập CĐVN. Các cấp công đoàn đã tích cực tham gia xây dựng và kiểm tra việc thực hiện luật pháp, chính sách, chế độ ở cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Chủ động tham gia giải quyết có hiệu quả các vụ tranh chấp lao động, đình công, góp phần sớm ổn định sản xuất kinh doanh trong DN và trật tự xã hội. Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX CĐVN được tập trung chỉ đạo đồng bộ ở tất cả các ngành, địa phương. Tuy nhiên, thời gian qua mới phát triển mạnh đoàn viên và CĐCS xã, phường, việc phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn ở khu vực kinh tế NQD còn gặp khó khăn do sự cản trở của giới chủ và một phần do chưa làm tốt công tác tuyên truyền. Tập thể ĐCT đã trực tiếp làm việc với một số ngành, địa phương. Lãnh đạo TLĐ và lãnh đạo các LĐLĐ tỉnh, thành phố, công đoàn ngành TW, CĐ cấp trên cơ sở đã thường xuyên đi sâu, đi sát nghiên cứu thực tiễn, nắm tình hình, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở. Kết quả hoạt động công đoàn và phong trào CNVCLĐ đã góp phần quan trọng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

III – Một số nhiệm vụ chủ yếu 6 tháng cuối năm 2005.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ công tác năm 2005 đã được Hội nghị BCH TLĐ lần thứ 4 thông qua, ngoài những công việc thường xuyên, các cấp công đoàn cần tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt một số nhiệm vụ chủ yếu sau:

1- Đẩy mạnh phong trào thực hành tiết kiệm chống tham nhũng, lãng phí gắn với thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo. Vận động các cơ quan, đơn vị đăng ký và thực hiện nhiều công trình, sản phẩm, sáng kiến, tiết kiệm mang tên “28/7” góp phần thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2005 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, thiết thực lập thành tích chào mừng Đại hội Thi đua toàn quốc lần thứ VII và đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội X của Đảng. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng người cán bộ công chức viên chức “Trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu”, tập trung vào cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính.

2- Công tác tuyên truyền giáo dục.

- Mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong CNVCLĐ và các cấp công đoàn, tổ chức cho đoàn viên  nghiên cứu, tham gia xây dựng văn kiện đại hội Đảng nhân dịp đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ X của Đảng, kỷ niệm 60 năm ngày thành lập nước CHXHCNVN và nhân kỷ niệm 76 năm ngày thành lập CĐVN, tuyên truyền về truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân, CĐVN, tổ chức các hoạt động VHTT tại cơ sở... Tiếp tục triển khai học tập 5 bài chính trị cơ bản trong CNVCLĐ, nhất là lực lượng lao động trẻ ở khu vực kinh tế NQD và có vốn ĐTNN. Phối hợp với Bộ VHTT, Uỷ ban TDTT tổng kết xây dựng đời sống văn hoá trong CNVCLĐ. Tập trung triển khai 2 Nghị quyết vừa thông qua tại Hội nghị lần thứ 5 là: “Đẩy mạnh công tác BHLĐ của tổ chức công đoàn trong tình hình mới” và “Đẩy mạnh công tác pháp luật của công đoàn trong tình hình mới” cùng với việc thực hiện các Nghị quyết lần thứ 4 BCH TLĐ. Nghiên cứu biên soạn cẩm nang về công tác BHLĐ và pháp luật giúp cán bộ Công đoàn, nhất là ở cơ sở dễ nghiên cứu và triển khai thực hiện.

- Tuyên truyền sâu rộng về công đoàn và những thành tựu, khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển của đất nước, về tình hình chính trị, thời sự trong nước và thế giới. Đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho CNVCLĐ, nhất là ở khu công nghiệp tập trung và khu vực kinh tế NQD.

- Nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm trạng, nguyện vọng của người lao động, tham gia giải quyết tranh chấp lao động; phối hợp tăng cường các biện pháp chủ động phòng ngừa đình công bất hợp pháp để ổn định tình hình chung.

- Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Nghị quyết liên tịch số 01 của Tổng Liên đoàn với Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia về tuyên truyền vận động CNVCLĐ đảm bảo trật tự an toàn giao thông.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên trong CNVCLĐ và người sử dụng lao động, có kế hoạch bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho tổ chức Đảng xem xét kết nạp. Tích cực vận động cán bộ, CNVCLĐ tham gia cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm trong lao động, sản xuất, công tác. Thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình và đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và phòng chống TNXH, HIV/AIDS.

- Tiếp tục nghiên cứu đổi mới nội dung và phương pháp tuyên truyền, nhất là đối với CĐCS và người lao động trực tiếp.

3- Chủ động nghiên cứu, tham gia xây dựng và kiểm tra, giám sát thực hiện luật pháp, chính sách, chế độ có liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ và tổ chức Công đoàn.

- Tham gia xây dựng Luật BHXH; Luật Xuất khẩu lao động: Luật Dạy nghề; pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ đình công, Nghị định về điều chỉnh lương tối thiểu chung, Nghị định về quy chế dân chủ cơ sở trong công ty TNHH, công ty cổ phần và xây dựng tài liệu hướng dẫn mẫu về các quy chế dân chủ trong DNNN.

 - Tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện các chính sách có liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ và tổ chức công đoàn, nhất là các chính sách về BHXH, BHYT, BHLĐ, tiền lương, tiền thưởng, chính sách liên quan đến quản lý tài chính DN, phân phối lợi nhuận sau thuế của các công ty nhà nước. Chủ động tham gia sắp xếp lại DNNN, cổ phần hoá DNNN, giải quyết lao động dôi dư, thực hiện chế độ tiền lương mới đối với CNVCLĐ và cán bộ công đoàn; chính sách nhà ở, nhà trọ, nhà lưu trú cho công nhân, lao động.

4- Phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ.

- Đẩy mạnh triển khai Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên. Tập trung vào khu vực kinh tế NQD và những đơn vị có đủ điều kiện. Phát triển mới đi đôi với củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng,  hạn chế giảm  thiểu số lượng.

- Tiếp tục nghiên cứu làm rõ mô hình tổ chức, nội dung phương thức hoạt động công đoàn trong các DNNN chuyển thành công ty cổ phần, DN chuyển đổi thành công ty mẹ, công ty con và công đoàn các tập đoàn kinh tế. Hoàn thành việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện  Điều 153 Bộ luật lao động đã được sửa đổi bổ sung quy định chức năng, nhiệm vụ của Ban Chấp hành CĐ lâm thời. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện việc phân cấp quản lý tổ chức theo điều lệ CĐVN giữa Công đoàn ngành TW, Công đoàn tổng công ty trực thuộc TLĐ và các LĐLĐ tỉnh, thành phố. Nghiên cứu tổng kết hoạt động tổ công đoàn để tìm ra phương thức hoạt động phù hợp, nâng cao vai trò của CĐCS và tổ Công đoàn. Nghiên cứu có hướng dẫn chính thức về hoạt động của CĐCS xã, phường.

- Tăng cường cán bộ công đoàn cấp huyện, nhất là khu vực Tây nguyên. Chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng, tập huấn cán bộ ở những đơn vị mới thành lập CĐCS, nhất là CĐCS xã, phường, thị trấn và doanh nghiệp NQD, DN có vốn đầu tư nước ngoài. Chuẩn bị và thực hiện tốt công tác tổ chức thi, tuyển sinh viên và cán bộ công đoàn vào học tại các trường Công đoàn. Làm tốt công tác quy hoạch đào tạo, bố trí, sử dụng và đánh giá đúng cán bộ.

- Nghiên cứu xây dựng Quy định của tổ chức Công đoàn trong việc kiểm tra thi hành chính sách pháp luật đối với người lao động

5- Công tác đối ngoại.

- Củng cố và tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị, hợp tác với các tổ chức công đoàn quốc tế, khu vực và các quốc gia thông qua việc thực hiện kế hoạch trao đổi đoàn đã được Trung ương và ĐCT phê duyệt.

- Chuẩn bị và tổ chức các đoàn đại biểu cấp cao của TLĐ tham gia Đại hội 15 Liên hiệp công đoàn thế giới.

- Phối hợp với Bộ Ngoại giao chuẩn bị cho các hoạt động trước Hội nghị APEC 2006.

- Tiếp tục triển khai các chương trình hợp tác ILO, LO.TOC Thuỵ Điển, LO/Nauy, FES, UNI-APRO; Công đoàn Công nghiệp Thụy Điển, Dự án “Nâng cao chất lượng thuyền viên Việt Nam” với Công đoàn Thuỷ thủ Nhật Bản, Dự án đào tạo với DGB/Đức, Dự án BSPS với Đan Mạch.

6- Công tác tài chính: Có các giải pháp tích cực chống thất thu kinh phí và đoàn phí công đoàn, nhất là các công ty cổ phần, DN tư nhân. Đi đôi với thu cần quản lý chặt chẽ chi, bảo đảm chi tiêu tiết kiệm, đúng quy định của nhà nước và của TLĐ. Các cấp Công đoàn cần tăng cường công tác quản lý tài chính, tài sản công Công đoàn, chống mọi biểu hiện tiêu cực trong chi tiêu tài chính và quản lý tài sản.

7- Công tác tổng kết và chỉ đạo thực hiện.

- Tổ chức đại hội thi đua CNVCLĐ toàn quốc lần thứ 7.

- Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 05 của Đoàn Chủ tịch TLĐ về công tác thông tin, báo cáo. Tổng kết 5 năm công tác xây dựng CĐCS vững mạnh.

- Nghiên cứu xây dựng Nghị quyết “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục của Công đoàn trong tình hình hiện nay.

- Tăng cường cán bộ công đoàn đi cơ sở, kịp thời phát hiện và tham gia giải quyết những khó khăn, vướng mắc và những kiến nghị của CNVCLĐ ở cơ sở.

- Đoàn Chủ tịch TLĐ và Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh, thành phố xây dựng chương trình làm việc với các ngành, địa phương, cơ sở trọng điểm; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX CĐVN.

                               TM. Đoàn Chủ tịch
                             Phó Chủ tịch Thường trực
                           Đã ký: Đặng Ngọc Tùng